TS. Phạm Trọng Nghĩa, ĐBQH thuộc Đoàn Lạng Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Xã hội của Quốc hội cho rằng, Việt Nam là một trong số các quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất khu vực ASEAN.
Theo ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa, Việt Nam là một trong số các quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất khu vực ASEAN. (Nguồn: Quochoi) |
Cần tập trung đầu tư về phát triển nguồn nhân lực
Ông đánh giá như thế nào về năng suất lao động của nước ta trong những năm vừa qua?
Ở phạm vi quốc gia, năng suất lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng, là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Ở khía cạnh khác, có thể nói, năng suất lao động cao là chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng của Quốc gia.
Trong thời gian qua, năng suất lao động của nước ta có sự cải thiện đáng kể. Việt Nam là một trong số các quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất khu vực ASEAN. Giai đoạn 2011-2015 là 4,53%/năm, giai đoạn 2016-2020 là 5,97%/năm.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, tốc độ tăng chưa đủ nhanh nên khoảng cách về năng suất lao động giữa nước ta với các nước trong khu vực vẫn còn rất xa. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới năm 2020, năng suất lao động theo sức mua tương đương của Việt Nam chỉ bằng 9,1% của Singapore; bằng 26,2% của Malaysia; bằng 46,8% của Thái Lan và bằng 68,7% của Philippines. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á cũng cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam đi sau Thái Lan 10 năm, Malaysia 40 năm và Nhật Bản 60 năm.
Nhìn vào những số liệu trên, chúng ta phải làm gì để có thể đuổi kịp các nước trong khu vực, thưa ông?
Theo Báo cáo số 577/BC-CP ngày 20/10/2023 gửi Quốc hội thì chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất lao động xã hội năm 2023 không đạt mục tiêu đề ra do một số nguyên nhân chủ yếu: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu. Thứ hai, sản xuất công nghiệp, xây dựng, bất động sản khó khăn, một bộ phận người lao động chuyển sang khu vực dịch vụ, chủ yếu là các ngành nghề phi chính thức có năng suất lao động thấp hơn.
Thứ ba, một bộ phận người lao động chuyển việc mới, cần thời gian học tập, thích nghi.
Bên cạnh đó, cũng có nguyên nhân mang tính dài hạn do chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, thiếu hụt kỹ năng nghề; cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý, chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế.
Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế, nếu năng suất lao động tăng 1% thì GDP của toàn nền kinh tế tăng 0,94 điểm phần trăm. Mặt khác, nếu không có giải pháp quyết liệt, năng suất lao động của Việt Nam sẽ bị tụt hậu xa hơn so với các quốc gia trong khu vực, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu. Đảng ta đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 đột phá chiến lược.
Vì vậy, cần tập trung đầu tư hơn nữa về phát triển nguồn nhân lực. Cần xây dựng và ban hành Chiến lược hoặc Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tốc độ tăng năng suất lao động là chất lượng nguồn nhân lực. Ông có thể chỉ ra kinh nghiệm quốc tế trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực?
Ngay trong khu vực ASEAN, Singapore đã xác định rất rõ sự phát triển kinh tế đất nước sẽ dựa chủ yếu vào các ngành dịch vụ như chăm sóc sức khỏe, phát triển công nghệ cao… Để làm được điều đó, Singapore đã thu hút nhân lực chất lượng cao đến làm việc với chế độ đãi ngộ tốt và chính sách nhập cư thuận lợi. Do vậy, Singapore sở hữu được nguồn nhân lực tốt và nguồn nhân lực này đã đóng góp cho nền kinh tế của họ phát triển như hiện nay.
Một ví dụ khác, Hàn Quốc là quốc gia có xuất phát điểm thấp. Vào những năm 1960 thì GDP của Hàn Quốc chỉ ngang bằng Việt Nam ở cuối những năm 1980. Thế nhưng đến nay họ đã có những bước phát triển thần kỳ. Trong từng giai đoạn tăng trưởng, Hàn Quốc luôn đặt mục tiêu hàng đầu là phải đào tạo được lực lượng nhân lực tương ứng để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Họ thực hiện thay đổi hoàn toàn chế độ lương bổng, đãi ngộ nhân tài và đột phá về khoa học công nghệ, mời các chuyên gia hàng đầu người Hàn Quốc trên thế giới về làm việc với mức lương cao, chế độ đãi ngộ tốt.
Chuyển từ dân số “vàng” số lượng sang “vàng” chất lượng
Nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng, ông nhận định ra sao về những thuận lợi cũng như rào cản?
Nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng với lực lượng lao động hùng hậu là 52,3 triệu người, đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN. Tuy nhiên, chất lượng lao động chưa cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới là hơn 67% và tỷ lệ có văn bằng chứng chỉ mới đạt xung quanh 27%. Nếu chúng ta không có chính sách để tận dụng thời cơ và phát huy thế mạnh của thời kỳ dân số vàng thì đây sẽ là lãng phí rất lớn, có tác động tiêu cực về nhiều mặt.
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản quyết định năng suất lao động, mà năng suất lao động cao là chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng của quốc gia. Trong khi đó, thời kỳ dân số vàng là giai đoạn chỉ có một lần trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Ở nước ta, thời kỳ dân số vàng dự kiến sẽ kết thúc vào năm 2038. Vậy nên, theo tôi cần phát huy tối đa lợi thế dân số vàng để phát triển kinh tế – xã hội, chủ động tích lũy để có nguồn lực ứng phó với thời kỳ dân số già.
ĐBQH Phạm Trọng Nghĩa: Cần thiết xây dựng chiến lược nâng cao giá trị của lao động Việt Nam. (Nguồn: VGP) |
Ông có khuyến nghị giải pháp gì để chuyển “vàng” về số lượng sang “vàng” về chất lượng?
Đúng vậy, hiện tại, nước ta đang trong thời kỳ dân số vàng với lực lượng lao động hùng hậu. Vấn đề quan trọng là để chuyển từ thời kỳ dân số “vàng” về số lượng sang “vàng” về chất lượng phải có giải pháp tổng thể, toàn diện.
Theo tôi, một là, cần khẩn trương ban hành Chiến lược phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên cơ sở tổng kết, đánh giá, việc thực hiện chiến lược này trong giai đoạn 2011-2020. Xây dựng Đề án thu hút trọng dụng nhân tài. Nghiên cứu đổi mới toàn diện chế độ làm việc trong khu vực công; nâng cao văn hóa và đạo đức công vụ.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm thể chế hóa và thực thi trên thực tế quan điểm của Đảng về 3 đột phá chiến lược. Trong đó, phải kể đến các điểm nhấn như: Đối với đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế: UBTVQH đã ban hành Kế hoạch số 81 với 137 nhiệm vụ lập pháp của Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV.
Đối với đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, Quốc hội đã quyết định tổng vốn đầu tư trung hạn nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 21 – 25 là 2.8 triệu tỷ đồng, tăng 37% so với giai đoạn 16 – 20, phần lớn trong số này là dành cho phát triển hạ tầng.
Quốc hội cũng đã thông qua các quy hoạch, kế hoạch cấp quốc gia nhằm định hướng không gian phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chương trình tổng thể ở tầm Quốc hội liên quan đột phá chiến lược về nguồn nhân lực. Do đó, như đã nêu trên, cần xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nguồn nhân lực.
Hai là, xây dựng, ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021- 2030 để thể chế hóa Kết luận số 52-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư. Xây dựng cơ chế làm cầu nối giữa thị trường lao động với hệ thống giáo dục, nhằm giải quyết vấn đề mất cân bằng cung cầu. Sớm triển khai tổ chức thực hiện Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động. Ngày 8/11/2023, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 1305/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động đến năm 2030. Trong đó, xác định mục tiêu phấn đấu nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về tốc độ tăng năng suất lao động vào năm 2030.
Ba là, cùng với các chiến lược phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong nước, cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn lực to lớn của hơn 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là thu hút các nhà khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản, các chuyên gia về quản trị xã hội. Để làm được như vậy, đại biểu đề nghị cần có môi trường làm việc đủ sức thu hút để các nhà khoa học, các chuyên gia tự tin trở về gắn bó, cống hiến với quê hương, đất nước.
Cuối cùng, cần thiết xây dựng chiến lược nâng cao giá trị của lao động Việt Nam và từng bước nói không với nhân công giá rẻ.
Xin cảm ơn ông