Từng bỏ học một tháng đầu lớp 10 nhưng không bị thầy cô trách phạt, cậu bé Minh suy nghĩ mãi, rồi quyết định chọn học Sư phạm để dạy học trò biết yêu thương.
Mặc áo phông, đeo giày thể thao, thầy Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, xuất hiện trên sân vận động. Sút bóng về khung thành để sinh viên năm thứ ba Khuất Văn Nam khởi động, cả thầy và trò cười tươi. Thầy Minh sau đó động viên cả đội chơi cống hiến.
“Đời sinh viên mấy ai được như vậy. Có lẽ đó là khoảnh khắc em trân trọng nhất với người thầy đáng kính của toàn trường”, Nam chia sẻ.
Với sinh viên Sư phạm, hình ảnh thầy hiệu trưởng giản dị vỗ vai học trò trên sân trường, có mặt ở ký túc xá trong buổi tối đầu tiên sinh viên nhập học, đã quá quen thuộc. Còn với thầy Minh, đó là cách để thầy dạy học trò về tình yêu thương – điều quan trọng nhất với mỗi nhà giáo, cũng là điều thầy tâm niệm kể từ lần bỏ học mà không bị trách phạt.
Thầy Minh năm nay 60 tuổi, quê Quảng Trị. Năm 1978, học hết cấp 2, cậu bé Minh phải thi vào trường cấp 3 Đông Hà cách nhà 24 km vì không có trường nào gần hơn. Khó khăn bủa vây, đói ăn, thiếu mặc, thiếu sách vở là chuyện thường. Nhà xa lại khó khăn nên Minh bỏ học cả tháng.
Ở nhà một mình trong khi bạn bè đi học cả, cậu bé Minh nghĩ “muốn vượt qua đói nghèo thì phải học” nên lại quyết tâm đi. Trở lại trường, Minh nghĩ thầy cô không cho học nữa.
Những tuần sau đó, thầy cô liên tục gọi lên bảng, có lần Minh làm được một chút, có lúc đứng như trời trồng. Cậu bất ngờ vì thầy cô không chê trách mà tìm cách hướng dẫn để bắt kịp các bạn. Minh tò mò “tại sao thầy cô tốt như vậy?”.
“Điều đó thôi thúc tôi thi vào Sư phạm dù chưa có khái niệm yêu nghề”, thầy Minh nhớ lại.
Tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Huế năm 1985, thầy Minh lên Tây Nguyên, dạy Vật lý tại trường Cao Đẳng Sư phạm. Học trò là người Ê Đê, Xê đăng, Mơ Nông, có cả sinh viên ngoài Bắc theo gia đình vào làm kinh tế mới.
Ở đó, cuộc sống khó khăn, đồng nghiệp lăn lộn với học trò. Thầy Minh nhận ra phải từ tình yêu thương, họ mới chấp nhận tất cả. Thầy tự nhủ mình cũng sẽ ứng xử với học trò như vậy.
Sau đó, thầy Minh được cử đi học thạc sĩ rồi làm nghiên cứu sinh. Quay lại trường khi đã đủ thời gian ở miền núi theo quy định, trường lại thừa biên chế, thầy Minh được cho chuyển công tác. Thầy quyết định ra thủ đô, giảng dạy tại khoa Vật lý, trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ năm 1996.
Hai năm sau, thầy Minh được cử đi thực tập ngắn hạn tại Pháp, sau đó thường xuyên thực tập, làm việc tại nước ngoài. Trong gần 10 năm, thầy đặt chân tới Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, rồi Mỹ.
“Tôi vẫn hay nói mình đi làm thuê bằng chuyên môn để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Có lúc tôi phân vân chuyện nên về nước không vì quen môi trường làm việc ở nước ngoài”, thầy Minh nhớ lại.
Khi đó, “bà mẹ nông dân” của thầy nói rằng “Xã hội đã nuôi con lớn bằng này, con mà đi thì hàng xóm nghĩ sao?”. Câu nói của mẹ như nhắc thầy nhớ về sự yêu thương, đùm bọc để quyết định ở Việt Nam, tiếp tục dạy học.
Là giảng viên của trường Sư phạm hàng đầu, thầy Minh tâm niệm bằng nhiều cách phải bồi đắp tình yêu thương cho sinh viên, sau mới đến chuyên môn. Với thầy, ghét nhau thì đơn giản, có thể tức thời, còn xây dựng tình yêu thương, giá trị nhân văn là hành trình dài, đòi hỏi kiên trì.
“Nếu bồi đắp được tình yêu thương, mong muốn gắn kết với nghề, sinh viên sẽ tự tìm cách trau dồi chuyên môn, dựa trên nền tảng được học ở trường”, thầy nói.
Năm 2012, thầy Minh được bổ nhiệm làm hiệu trưởng. Đúng thời điểm đó, các trường phổ thông bán công phải chuyển sang tư thục hoặc công lập. THPT Nguyễn Tất Thành – trường thực hành của Đại học Sư phạm Hà Nội nằm trong số này.
Cũng năm đó, một học sinh lớp 12 của trường mắc bệnh tim, mất sau khi chạy trong giờ Thể dục. Viếng đám tang học trò, hình ảnh chàng trai cao ráo, khỏe mạnh ám ảnh thầy suốt mấy tháng. Câu hỏi “Tại sao một đứa trẻ vô tội phải mất trong nỗi xót xa như vậy?” dằn vặt người đứng đầu trường Sư phạm.
Từ trăn trở đó, khi viết đề án chuyển đổi trường Nguyễn Tất Thành thành trường công lập tự chủ tài chính – mô hình rất mới ở Việt Nam lúc bấy giờ, thầy Minh nêu yêu cầu đầu tiên với cộng sự là không bắt học sinh học Thể dục hay Âm nhạc như nhau. Các em được chọn nội dung theo thể lực, sở thích.
Quan điểm về phát triển năng lực học sinh theo hướng cá nhân hóa khi đó là “rất lạ”. Sau này, trường còn quy định học sinh có quyền học vượt và tổ chức các câu lạc bộ năng khiếu. Mô hình trường Nguyễn Tất Thành được Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội ủng hộ. Ngày nay, trường trở thành nơi thực hành cho sinh viên và địa chỉ được học sinh, phụ huynh tin cậy.
Với sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, thầy Minh cùng thầy cô chú trọng xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với thời đại, củng cố các lớp chất lượng cao – nơi quy tụ những sinh viên tốt nhất; mở các khóa dạy bằng tiếng Anh cho các khoa tự nhiên như Sư phạm Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Công nghệ thông tin.
Sinh viên những lớp này được học vượt, không giới hạn số tín chỉ trong một năm. Những em có khả năng nghiên cứu được áp dụng chính sách riêng như xem xét miễn thời gian lên lớp nếu phải tập trung cho công bố khoa học hay báo cáo tại hội thảo quốc tế. Những sinh viên xuất sắc được học các chuyên đề tương đương sau đại học để tiết kiệm thời gian nếu học lên.
Với giảng viên, trăn trở lớn nhất của thầy Minh là câu chuyện thu nhập của giảng viên. Là trường tự chủ một phần chi thường xuyên, sinh viên được cấp bù học phí, nguồn thu chủ yếu dựa vào đào tạo sau đại học và đào tạo bên ngoài, trường luôn dành tỷ trọng cao nhất cho con người.
Thầy Minh quan niệm “dù phải giật gấu vá vai cũng không để phúc lợi của giảng viên giảm”. Trong hai nhiệm kỳ thầy làm hiệu trưởng, phúc lợi cho cán bộ, giảng viên trường Sư phạm tăng theo từng năm. Phần thu nhập tăng thêm được chia theo năng lực, tạo sự bình đẳng chứ không bình quân.
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng xây dựng các quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học; giải thưởng cho giảng viên giảng dạy, nghiên cứu tốt để thúc đẩy tinh thần làm việc của thầy cô.
Nhìn lại 10 năm trên cương vị hiệu trưởng, thầy Minh cho rằng những gì bản thân làm được không quá đặc biệt.
“Việc trường Sư phạm phát triển và được tin yêu là công sức của tất cả cán bộ, giảng viên và sinh viên. Còn điều khiến tôi vui nhất là được sinh viên yêu quý”, thầy Minh nói, cho hay có tháng nhận vài chục email của sinh viên, từ băn khoăn về nghề nghiệp đến chuyện gia đình.
Ở tuổi 60, chuẩn bị kết thúc hai nhiệm kỳ hiệu trưởng, thầy Minh sẽ về giảng dạy tại khoa Vật lý để tiếp tục được gần gũi với sinh viên, được thấy những mảnh giấy trái tim chúc mừng 20/11 treo ở cửa phòng và thấy sinh viên trưởng thành, đem tình yêu thương đến các trường học trên mọi miền đất nước.