"Quả đấm" tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong KHCN- Khi viện trưởng phải chạy vạy lo lương (Bài 3)

Báo Dân ViệtBáo Dân Việt12/03/2025

Sau tròn 20 năm triển khai chính sách về tự chủ đối với tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN), đến giờ vẫn là sự đau đầu đối với các Viện, khi quanh năm chỉ lo "chạy vạy" đủ đề tài để lo chi lương thường xuyên cho đội ngũ cán bộ của mình. Cũng vì thế, đòi hỏi có sản phẩm "đột phá" là không tưởng.


Khi nghe PV Dân Việt đặt vấn đề để chia sẻ về những mong muốn, kiến nghị, đề xuất sau khi Bộ Chính trị có Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, rất nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực nông nghiệp đã mở lòng một cách thoải mái. Những nhiệm vụ, giải pháp, nội dung nêu trong Nghị quyết 57 chính là những điều các nhà khoa học một đời gắn bó với cây lúa, củ khoai ngày đêm hằng mong mỏi.

20 năm thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Số phận của các Viện nghiên cứu ngày càng u ám

Trả lời phỏng vấn Dân Việt, GS.TS. Lê Huy Hàm - Nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ nông nghiệp, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhìn nhận, thời gian vừa qua, KHCN đã gặp rất khó khăn, chủ trương tạo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập quy định tại Nghị định 115 năm 2005, do được diễn giải khác nhau ở mỗi góc độ quản lý, đã như một "quả đấm" khiến cho KHCN chưa thực sự phát triển theo đúng bản chất của nó.

Nghị định 115 về tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho phép các cơ sở nghiên cứu và phát triển (R&D) tự chủ về nhân lực, hạ tầng, tài chính và tổ chức. Sau quá trình thực hiện gần 20 năm, chính sách này ngày càng tỏ ra bất cập. Có lẽ, nhiều yếu tố chưa được xem xét kỹ lưỡng trong khuôn khổ chính sách này, đó là: i) Nhân sự của chúng ta được quản lý theo luật công chức, viên chức. Không có cơ sở R&D nào có thể sa thải, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự theo cách khác được.

Thứ nhất, về tài chính, khi đấu thầu được nhiệm vụ thì kinh phí đã được cơ quan quản lý phân chi tiết từng đồng. Không có chỗ nào cho tự chủ kinh phí ở đây. Nhiều Bộ không cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên, vì vậy ở đây họ cũng không có gì để tự chủ.

Thứ hai, về hạ tầng, tài sản, sở hữu trí tuệ... được quản lý theo các luật tương ứng, không thể làm khác.

Thứ ba, về tự chủ hướng nghiên cứu, nghe có vẻ hợp lý nhưng lại là chỗ yếu nhất của quy chế này vì một cơ sở R&D, bất kỳ cấp Viện, Trung tâm hay phòng đều được thành lập với một chức năng nhiệm vụ nhất định (nhiệm vụ chính trị- như ta thường nói) và phải được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện. Nay, ta yêu cầu các cơ sở R&D tự chủ về hướng nghiên cứu để không phụ thuộc vào ngân sách thì vô hình chung chúng ta đã tách rời họ khỏi nhiệm vụ chính trị đã được chỉ định. Chủ động tạo ra yếu tố chồng chéo, làm rối loạn hệ thống nghiên cứu vốn đã không mấy nền nếp. Có những lĩnh vực thì nhiều Viện/Trường tranh nhau lao vào, có những lĩnh vực bỏ ngỏ, mặc dù cần thiết. Sự phân công nhiệm vụ ban đầu bị vô hiệu hóa.

57 trong nông nghiệp: - Ảnh 1.

GS.TS. Lê Huy Hàm - Nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ nông nghiệp, Trường Đại học Công nghệ, (ĐHQGHN) cho hay, Nghị định 115 năm 2005 về tự chủ, tự chịu trách nhiệm như "quả đấm" khiến cho KHCN chưa thực sự phát triển theo đúng bản chất của nó. Ảnh: Minh Ngọc

Lẽ ra, các cơ sở R&D này phải có nguồn kinh phí thường xuyên ổn định để theo đuổi phân công của nhà nước. Nếu nhiệm vụ trở nên không cần thiết thì thay đổi, sát nhập, giải thể thông qua các đánh giá khách quan của cơ quan quản lý, hội đồng chuyên môn. Lãnh đạo cơ sở R&D không hoàn thành nhiệm vụ cơ sở mình được giao thì cho nghỉ việc. Chỉ có như thế chúng ta mới có hệ thống khoa học công nghệ lành mạnh.

So sánh tự chủ trong khoa học với "khoán 10" trong nông nghiệp có lẽ không hợp lý. Vì khoán 10 trong nông nghiệp đã được nông dân và lãnh đạo các địa phương "ngầm" thực hiện ở nhiều nơi, nhiều năm, sau đó được đúc rút lại thành Nghị quyết 100 (khoán 10) rất nổi tiếng. "Khoán 10" trong nông nghiệp trên thực tế đã được đổi bằng mồ hôi, nước mắt của nông dân và sự nghiệp chính trị của nhiều lãnh đạo các địa phương và được đúc rút từ thực tế cuộc sống sản xuất của nông dân. Chính vì thế nó đã cứu cả đất nước này thoát khỏi đói nghèo những năm 80-90 của thế kỷ trước. Áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm này dẫn đến hệ quả tai hại như chúng ta đã thấy trong thực tế là: Hệ thống nghiên cứu đã bị suy yếu đi một cách rõ rệt. (GS-VS Lê Huy Hàm)

Mỗi viện được cấp 5 tỷ đồng/năm, lương cán bộ khoa học còn không trả nổi, làm sao giữ được người tài

GS.TS. Lê Huy Hàm cho rằng, đánh giá của xã hội đối với KHCN nông nghiệp chưa được công bằng. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước chúng ta phải nhập khẩu gạo, sau đó dần dần đủ gạo ăn và bắt đầu có gạo, nông sản xuất khẩu…đến năm 2024 thì giá trị xuất khẩu nông sản trên 62 tỷ USD, là nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Để có được những kết quả trên, ngoài có cơ chế chính sách, đầu tư đúng đắn, sự năng động của các doanh nghiệp, thì đóng góp của KHCN nông nghiệp là không nhỏ, những đóng góp đó nổi bật nhất và dễ nhìn thấy nhất. Phải khẳng định rằng thành tựu này của KHCN nông nghiệp Việt Nam khó nước nào có thể so sánh được, nếu so với mức đầu tư nhận được.

Nhờ KHCN, rất nhiều giống cây trồng, vật nuôi, quy trình canh tác, tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng. Nếu chúng ta nhìn vào 1 đề tài hay 1 dự án chưa chắc đã nhìn thấy hiệu quả ngay. Nhưng nhìn tổng thể thì quả thực là một sự đột phá trong nông nghiệp so với những năm trước đây.

Mặc dù đạt được nhiều kết quả đột phá, tuy nhiên, đầu tư cho KHCN nông nghiệp vẫn cực kỳ khiêm tốn. Trước khi hợp nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường, riêng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là Bộ rất lớn, gồm 5 bộ gộp lại: Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Thủy lợi, Bộ Thủy sản, Bộ Lâm nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đến 60 Viện/Trung tâm nghiên cứu. Mỗi năm Bộ này được cấp hơn 700 tỷ, trong đó đã bao gồm chi cho lương và phần còn lại dành cho R&D. Trung bình mỗi Viện/Trung tâm chỉ được cấp (qua đấu thầu đề tài, dự án) khoảng 5 tỷ là tối đa. Mức đầu tư này quá thấp so với ngưỡng cần có để đầu tư có thể phát huy tác dụng.

57 trong nông nghiệp: - Ảnh 2.

Anh Lâm Ngọc Tuấn - Giám đốc HTX Nông nghiệp Tuấn Ngọc (phường Long Trường, TP.Thủ Đức, TP.HCM) phát triển thành công mô hình kinh tế tập thể ứng dụng công nghệ cao. Ảnh: Lê Giang

Trong những năm qua, lương cho cán bộ khối Viện/Trung tâm giảm dần, nhiều Viện chỉ chi trả được 50-60% - mức lương vốn đã thấp của cán bộ, điều này dẫn đến cán bộ khoa học bỏ đi hàng loạt. Trong đó, có không ít cán bộ đã thành danh, họ đến bất cứ nơi nào có thể tồn tại được. Còn cán bộ mới không vào các Viện nghiên cứu, cán bộ được cử đi học nước ngoài không trở về. Để khôi phục lại được lực lượng cán bộ này, có lẽ chúng ta phải mất 10-15 năm.

KHCN của chúng đang chuyển từ thuần túy ứng dụng công nghệ sang sáng tạo công nghệ và đây là giai đoạn rất quan trọng. Ở giai đoạn này, rủi ro trong nghiên cứu sẽ cao hơn, mức đầu tư yêu cầu lớn hơn, dài hạn hơn, theo định hướng chiến lược nhất định. Nếu không đầu tư đủ kinh phí, tổ chức hệ thống hiệu quả, không những không chuyển sang sáng tạo ra công nghệ được mà phát triển các ứng dụng công nghệ cũng sẽ là thách thức. Điều này, buộc chúng ta phải sắp xếp hệ thống theo hướng tinh gọn, tránh chồng chéo, phân công rõ ràng, cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các đơn vị để họ theo đuổi nhiệm vụ chính trị dài hạn mà họ được phân công lúc thành lập ra. Nếu đầu tư cho KHCN không đến nơi đến chốn và không đạt đến ngưỡng thì KHCN không bao giờ phát huy được hiệu quả, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Tất nhiên việc cấp kinh phí bao giờ cũng đi kèm với đánh giá. Chúng ta phải có kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, ít nhất trong 1 nhóm các nhà khoa học hoặc 1 Viện họ phải được cấp kinh phí theo nhiệm kỳ 5 năm để có thể lập kế hoạch trung hạn và định hướng chiến lược lâu dài. Khi đã có đủ kinh phí, thời gian, các Viện mới có thể hoạch định chiến lược nghiên cứu và thực hiện sự phân công lĩnh vực trong hệ thống KHCN của cả nước. Sau mỗi giai đoạn, các cơ sở R&D sẽ được đánh giá, nếu đạt được kết quả KHCN như dự kiến thì mới tiếp tục cấp kinh phí, như vậy mới tạo được động lực cho KHCN.

Nghiên cứu khoa học phải gắn với đào tạo và ngược lại

GS- VS Lê Huy Hàm đánh giá: Thời gian vừa qua, chúng ta cử cán bộ đi đào tạo nước ngoài tương đối nhiều theo các chương trình nhưng phần lớn cán bộ không trở về. Một phần vì lương thấp, phần vì cơ chế chính sách không thu hút được họ trở lại. Đồng thời, mỗi năm người dân cũng tự bỏ ra nhiều tỷ USD cho con em mình đi học ở nước ngoài. Đó là nguồn lực rất lớn. Nếu thu hút được lực lượng này trở về thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều tiền ngân sách. Nhưng chúng ta làm việc này rất yếu. Cần có chiến lược để thu hút lực lượng này trở lại thông qua cơ chế, chính sách và điều kiện làm việc.

Trước đây, nguồn nhân lực chất lượng cao cho KHCN dựa vào lực lượng được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng gần đây nguồn này hầu như không còn nữa. Hiện nay, ở trong nước, chúng ta đã đủ khả năng đào tạo chất lượng cao một số lĩnh vực nhưng cách đào tạo còn chưa phù hợp. Ở các nước, nghiên cứu sinh tiến sĩ, thạc sĩ hay thực tập sau tiến sĩ không phải đóng học phí, lại được trả học bổng để thực hiện các dự án nghiên cứu. Bằng cách này, xã hội đã tận dụng được nguồn nhân lực chất lượng cao, trẻ tuổi, có khát vọng phát triển vào thực hiện mục tiêu của các chương trình KHCN.

57 trong nông nghiệp: - Ảnh 3.

Giảng viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam cùng sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học.

Đồng thời, lại đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai bằng phương pháp "học bằng làm" dưới sự hướng dẫn của các cán bộ khoa học đầu ngành. Đó là phương pháp đào tạo không thể tốt hơn. Thế nhưng, ở nước ta các nghiên cứu sinh tiến sĩ, thạc sĩ không có lương/học bổng đã đành, phải lo học phí, lại còn ít khi có đề tài để thực hiện các luận án tốt nghiệp, do đó chất lượng đào tạo sau đại học chắp vá và ở trình độ thấp kém. Do đó, nhiều cơ sở đào tạo không tuyển được nghiên cứu sinh tiến sĩ, thạc sĩ.

Ngoài ra, chúng ta cũng không có chế độ thực tập sinh sau tiến sĩ (postdoc fellow) – một hình thức đào tạo tiếp theo bằng việc tham gia của nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp vào môi trường nghiên cứu thực sự dưới sự chỉ đạo của các giáo sư đầu ngành - rất hiệu quả ở các nước phương tây. Hình thức đào tạo này giúp các tiến sĩ trẻ phát triển đến "chín muồi" trong môi trường nghiên cứu thực thụ trước khi thực sự độc lập bước vào sự nghiệp của mình. Không xây dựng được các Trường đại học nghiên cứu mạnh là chúng ta bỏ qua một cơ hội đào tạo chất lượng cao và một lực lượng lớn cán bộ giảng viên, nghiên cứu sinh và cả sinh viên có tiềm năng đóng góp lớn cho KHCN. Sự tham gia của họ còn có giá trị rất lớn trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo ở các Trường đại học hướng đến thực tiễn xã hội. Ví dụ điển hình như Larry Page và Sergey Brin – những người sáng lập ra Google khi họ đều là những nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California (Mỹ).

Mặt khác, một khi người thầy vừa có lý thuyết, vừa có thực tế, khi lên lớp bài giảng sẽ sâu sắc hơn, thấu đáo hơn, định hướng cho sinh viên chất lượng hơn và thực tế hơn. Điều này khác với người thầy chỉ có kiến thức trong sách vở.

Sinh viên được đào tạo theo hướng vừa học tập vừa nghiên cứu sẽ là những người có kiến thức thực tế, ra trường họ sẽ rút ngắn thời gian tiếp cận, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo. Hiện nay, nhiều trường đang đào tạo sinh viên chất lượng rất cao, tuy nhiên các em mất nhiều thời gian để tiếp cận với thực tế sau khi ra trường. Vì vậy, việc hướng đến việc phát triển các Trường đại học nghiên cứu là rất quan trọng.

Từ thực tế đó, khi người nước ngoài sang Việt Nam, họ đặt câu hỏi với tôi rằng: "Nghiên cứu mà không đào tạo thì nghiên cứu để làm gì? Đào tạo mà không có nghiên cứu thì lấy gì mà đào tạo?"

Kỳ vọng vào 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ

Theo GS.TS. Lê Huy Hàm, có thể khẳng định, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 193 của Quốc hội và Nghị quyết 03 của Chính phủ cho thấy, sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước với KHCN, đặc biệt trực tiếp Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ đạo rất sâu sát đối với lĩnh vực KHCN. 3 Nghị quyết này sẽ đưa KHCN Việt Nam lên một bước tiến rất lớn.

Nhìn lại những vừa năm qua, chúng ta thấy rất rõ, KHCN đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc về cơ chế tài chính, đấu thầu, quản lý, cấp phát, tài sản hình thành trong quá trình nghiên cứu dự án…trước đây, tôi vẫn nói, "chúng ta có gỡ bao nhiêu đi chăng nữa nhưng không có sự vào cuộc, chỉ đạo của cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước là Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ thì sẽ không thể tháo gỡ được khó khăn vướng mắc của KHCN".

3 Nghị quyết trên có nhiều điểm đột phá cho KHCN. Trong đó, tăng mức đầu tư, giảm thủ tục hành chính, cấp phát kinh phí theo quỹ, khoán chi, xử lý tài sản hình thành từ KHCN, tài sản mua sắm trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, cho phép hình thành doanh nghiệp… đó là những quy định "cởi mở" hơn trước rất nhiều.

Rồi cán bộ khoa học được hình thành các doanh nghiệp và tham gia vào các doanh nghiệp. "Người ta phải được hưởng thành quả từ lao động, nghiên cứu, từ đó tạo động lực làm việc chứ không phải làm để trả bài". Cùng 1 đề tài, 1 dự án, nghiên cứu để nghiệm thu đề tài phải cố gắng một nhưng để đi đến sản phẩm ứng dụng được phải lao động ít nhất gấp 3 lần. Việc cho phép cán bộ khoa học hưởng thành quả từ lao động của mình là một bước thay đổi rất lớn, sẽ khích lệ cán bộ khoa học hướng tới sản phẩm ứng dụng mang lại lợi ích cho toàn xã hội, trong đó, có chính bản thân họ. Từ đây họ sẽ đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, ưu tiên đề xuất nghiên cứu phát triển KHCN phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế và các doanh nghiệp của Việt Nam.

57 trong nông nghiệp: - Ảnh 4.

TS. Đào Minh Sô cùng các cộng sự Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) mất gần 10 năm nghiên cứu để chọn lọc thành công ba giống lúa màu đỏ (SR20), tím (SR21), đen (SR22) đạt các tiêu chí về độ thuần, năng suất, khả năng chống chịu bệnh, thành phần dinh dưỡng... Ảnh: Hà An

GS.TS. Lê Huy Hàm cho rằng, để triển khai hiệu quả 3 Nghị quyết trên, thứ nhất, trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện phải giữ được "đúng tinh thần cởi mở của các Nghị quyết". Quyết không để "trên nóng, nhưng dưới lạnh". Nếu quá trình thực hiện gặp vướng mắc ở đâu thì các Bộ, ngành phải tổng hợp, báo cáo và xin ý kiến luôn cấp có thẩm quyền cao nhất để chỉnh sửa.

Thứ hai, KHCN luôn luôn phát triển, trong khi chúng ta đang là những người "học làm khoa học". Hơn 30 năm trước, Việt Nam là đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu, đến những năm 90 của thế kỷ trước mới bắt đầu phát triển hệ thống KHCN thì các nhà khoa học mới được cấp một chút kinh phí. Sau đó, từ năm 2000 mới hình thành các chương trình cấp Nhà nước, tất cả những bước này mới chỉ là "bước trải nghiệm và rút kinh nghiệm". Còn bề dày về KHCN thì chúng ta chưa có. Vì vậy, phải luôn luôn có sự giao tiếp giữa các nhà quản lý nhà nước về KHCN với các nhà khoa học để lắng nghe "nhịp đập" của KHCN, xem vướng mắc ở đâu, từ đó tháo gỡ kịp thời.

GS.TS. Lê Huy Hàm cho hay, ở thế kỷ XVIII, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên diễn ra, Các Mác đã sang Anh nghiên cứu và ông tiên đoán KHCN sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội và ngày nay càng hiện rõ khuynh hướng như vậy.

Hiện nay, ở nước ta cũng đang hình thành xu hướng đó ở trong các Viện, Trường và doanh nghiệp. KHCN đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho đời sống xã hội. Vì vậy, "lắng nghe mạch đập, nhịp thở" của KHCN sẽ giúp từ các cấp cao nhất, đến các nhà quản lý giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Tuy nhiên, quá trình này phải liên tục, không để lâu như thời gian vừa qua mới bắt đầu chỉnh sửa. Nếu làm được như vậy, KHCN sẽ trở thành công hữu hiệu trong tay Đảng và nhà nước để phát triển đất nước như kỳ vọng.

Có hay không chuyện nhà khoa học phải "cắt phế" phần trăm đề tài nghiên cứu khoa học?

Trong quá trình thực hiện loạt bài, một nhà khoa học nổi tiếng (xin được giấu tên) chuyên nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng đã kể lại với PV Dân Việt về nhiều tiêu cực trong đấu thầu đề tài. Ông nói, làm khoa học đã rất vất vả, nhiều thủ tục... còn phải lo chuyện "lại quả, chi phần trăm trong các gói thầu".

Theo nhà khoa học này, chuyện "lại quả" không hiếm trong làm khoa học. Mới đây, khi triển khai đề tài về giống lúa đặc sản ở một địa phương với kinh phí khoảng vài tỷ đồng, ông đã phải bỏ ra 50 triệu đồng làm thủ tục và còn bị đòi "cắt phế" thêm 30%. "Chịu không nổi nên tôi đã trả lại đề tài và kinh phí cho Nhà nước", ông nói.

Còn trong đấu thầu đề tài về nghiên cứu giống, khi thắng thầu các nhóm nghiên cứu thường hay nể nang chia sẻ kinh phí thực hiện dẫn đến việc đầu tư cho nghiên cứu không quyết liệt, "tới nơi tới trốn" nên không tạo ra các giống chất lượng cao.

Trước thực tế trên, nhà khoa học này đề xuất, ngoài nâng cao mức thu nhập cho các nhà khoa học, Nhà nước cần phải tạo ra môi trường tốt để họ thỏa sức nghiên cứu, sáng tạo. Tránh tình trạng nhà khoa học bị "làm nhục", phát sinh tiêu cực bằng các cơ chế xin - cho, "đi đêm", "lại quả", "chi phần trăm" trong đấu thầu khoa học.

Theo ông, các nhà khoa học rất ủng hộ việc đấu thầu đề tài nhưng trong bối cảnh Việt Nam đang có nhiều Viện/Trung tâm nghiên cứu giống nhau, quả như hiện nay thì cần lựa chọn các đơn vị có năng lực thực sự, các nhóm nghiên cứu giỏi để làm các đề tài, nhiệm vụ khoa học. Tránh tình trạng phân bổ đề tài kiểu "nước chảy chỗ trũng", kinh phí dàn trải và giao cho các đơn vị yếu kém sẽ không đạt được kết quả nghiên cứu như kỳ vọng.

Ông cũng cho rằng, để chọn được người tài làm nghiên cứu khoa học, khi đấu thầu Nhà nước không nên phân biệt đơn vị công lập với tư nhân. Do hiện nay, cơ chế đấu thầu vẫn còn nhiều vướng mắc nên nhiều nhà khoa học giỏi, có kinh nghiệm phải đi làm thuê cho các đơn vị, các chủ nhiệm đề tài yếu kém khiến họ rất bất mãn và không thể hiện hết được tài năng của mình.

Đối với đấu thầu khoa học, nhiều nhóm nghiên cứu còn thường trực nỗi lo bị lộ đề tài. Có nhà khoa học làm hồ sơ chỉ bị sai tên hoặc sai một lỗi chính tả nhưng khi lộ ra ngoài sẽ bị loại ngay. Ông nói "rất đau xót".



Nguồn: https://danviet.vn/57-trong-nong-nghiep-qua-dam-tu-chu-tu-chiu-trach-nhiem-trong-khcn-khi-vien-truong-phai-chay-vay-lo-luong-bai-3-20250311221705354.htm

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Cầu thủ Việt kiều Lê Khắc Viktor gây chú ý ở đội tuyển U22 Việt Nam
Những sáng tạo trong phim truyền hình 'Remake' ghi dấu ấn trong lòng khán giả Việt
Tà Má - suối hoa huyền ảo giữa núi rừng trước ngày khai hội
Đón nắng ở làng cổ Đường Lâm

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Bộ - Ngành

Địa Phương

Sản phẩm