Cổng vào Văn Thánh (Văn Miếu) - Nơi được nhà Nguyễn lập nên để tôn vinh các thánh hiền của đạo Nho. Ảnh: Trung tâm BTDTCĐ Huế |
Đọc lại sử ta, không ít chuyện về thái độ khiêm nhường của các bậc đế vương sẵn sàng “hạ mình” trước các bậc danh sĩ. Thái độ cầu hiền của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ mà sau này trở thành Hoàng đế Quang Trung là một ví dụ. Người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã lấy tâm đức, khí chất, tài thao lược của mình để thu phục sĩ phu Bắc Hà trong sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, dẹp yên loạn tặc và canh tân đất nước. Về dưới trướng Quang Trung là đông đảo các danh sĩ vốn một mực chỉ phò nhà Lê, đặc biệt là Ngô Thời Nhậm. Dưới triều Lê, Nhậm chỉ là một viên quan bình thường, nhưng với “biệt nhãn” của Quang Trung, ông trở thành một nhà tham mưu tài năng của Triều Tây Sơn.
Với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng vậy. Giữa Quang Trung và Nguyễn Thiếp là một mối quan hệ đặc biệt độc đáo, không thực sự là “vua - tôi” vì Phu Tử vẫn giữ lòng trung với nhà Lê, không hẳn theo Tây Sơn. Có lẽ, giữa Quang Trung và Nguyễn Thiếp là mối giao tình tri âm bởi có chung lý tưởng vì dân, vì nước. Đó là sự gặp gỡ có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Cuộc tâm giao vĩ đại vì đại nghĩa giữa một đại sĩ phu chối bỏ công danh lui về sơn thôn ẩn dật và vị anh hùng dân tộc chí lớn, tài cao, có một tấm lòng chân thành thực tâm đãi sĩ, chiêu hiền.
Đọc lại những sử liệu của học giả Hoàng Xuân Hãn trong sách La Sơn Phu Tử và các tài liệu khác như Lê mạt tiết nghĩa liệt, Dã sử nhật ký, Thối thực ký văn càng hiểu thêm về tài năng, nhân cách của danh nhân Nguyễn Thiếp và thái độ cầu hiền nhất mực khiêm cung của Hoàng đế Quang Trung. Điều đó cũng được thể hiện từ nội dung những bức thư trao đổi qua lại và những đối đáp trong cuộc tiếp kiến giữa hai nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta dưới chân núi Phượng Hoàng, vùng Chân Lộc, Nghệ An cũ. Thời phong kiến, trật tự trên - dưới là một nguyên tắc bất di bất dịch; kẻ dưới gặp người trên là phải “hạ mã” (xuống ngựa) vái chào. Thế nhưng, đã có những “người trên” như vua Quang Trung sẵn sàng “xuống ngựa” để thu phục nhân tâm “kẻ dưới”.
Nhắc lại mối quan hệ và cách hành xử đặc biệt của vua Quang Trung với đại danh sĩ Nguyễn Thiếp như là một câu chuyện nổi bật về tư tưởng kính trọng và quyết tâm thu phục những bậc thức giả tài năng của vị hoàng đế anh minh tâm lớn, chí cao. Chuyện Quang Trung - Nguyễn Thiếp thường được so ví với chuyện Trung Hoa vào thời Tam Quốc. Lưu Bị chỉ là anh chàng dệt chiếu kém học nhưng chính nhờ biết nhún mình “tam cố thảo lư” (ba lần đến lều cỏ), một dạ chân thành trọng thị mà đã được Gia Cát Khổng Minh đền ơn tri ngộ. Chỉ những võ tướng dũng mạnh như Quan Vân Trường, Trương Phi chưa đủ, Khổng Minh về bên Lưu Bị, trở thành bậc quân sư - mưu sĩ số một giúp Lưu Huyền Đức gầy dựng thành công sự nghiệp nhà Hậu Hán.
Những tấm bia đá khắc tên các vị tiến sĩ Triều Nguyễn. Ảnh: Trung tâm BTDTCĐ Huế |
Tấm lòng thiết tha kêu gọi, sự tỏa sáng trí tuệ và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ kính yêu đã có sức hấp dẫn rất lớn, khiến cho các nhân sĩ tài cao, đức trọng trong chế độ trước đã tích cực hợp tác với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đó là những tên tuổi nổi tiếng, từng là quan lại tối cao như Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ Hình Triều Nguyễn), Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim), Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền triều đình Bảo Đại). Rồi Tham tri Đặng Văn Hướng, cựu Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Hà Đông Hồ Đắc Điềm, cụ Ưng Úy (thành viên hoàng tộc nhà Nguyễn, thuộc hàng cha chú vua Khải Định), nhà Hán học nổi tiếng Bùi Kỷ, luật sư Phan Anh (Tổng trưởng Thanh niên Chính phủ Trần Trọng Kim)...
Đặc biệt, những trí thức chân ch50ính, các nhà khoa học đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, đã sẵn sàng từ bỏ sự đãi ngộ và cuộc sống cao sang xứ người, trở về với Tổ quốc và Nhân dân, tích cực tham gia kháng chiến, kiến quốc trong điều kiện vô cùng gian khổ và hiểm nguy của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tấm lòng thành tâm “chiêu hiền, đãi sĩ” của Bác đã gặp gỡ, khơi dậy tinh thần yêu nước và con đường chính nghĩa mà đất nước đã được đón về các bác sĩ, kỹ sư, nhà nghiên cứu nổi tiếng và chính họ đã cùng đội ngũ trí thức Việt Nam góp nhiều công sức cho sự nghiệp cách mạng. Có thể kể đến những cái tên: Hoàng Minh Giám, Vũ Đình Tụng, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ), Trần Hữu Tước, Lương Định Của, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Trịnh Định Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum…
Trong hồi ký của mình, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa viết: “Đặc biệt đối với chúng tôi là những trí thức ở nước ngoài về, sắp sửa bước vào cuộc đấu tranh gian khổ, Bác chú ý đi sâu vào tâm tình, khơi gợi lòng yêu nước, củng cố niềm tin ở bản thân, tin ở tập thể, tin ở cách mạng nhất định thắng lợi. Lời nói tin yêu của Bác đã cảm hóa và chinh phục trái tim chúng tôi”.
Trong thời đại ngày nay, thời của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam; thời đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, thời của kinh tế tri thức và cuộc cách mạng chuyển đổi số, thì vai trò của trí thức lại càng vô cùng quan trọng. Bởi vậy, đội ngũ trí thức cần được hết sức tôn trọng, cần được tập hợp tạo thành một nguồn lực mạnh mẽ. Họ cũng rất cần không gian, cơ hội, điều kiện làm việc và cống hiến tốt; cần một nguồn lực đầu tư, sự ưu đãi về đời sống và môi trường dân chủ để được đóng góp trí tuệ, công sức vào sự nghiệp kiến thiết, dựng xây đất nước.
Bởi vậy, luận đề của chí sĩ Thân Nhân Trung thảo vào năm 1483 được tạc trong bia đá ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám lưu lại vẫn vô cùng sâu sắc và phù hợp trong thời đại ngày nay: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”. Từ thế kỷ XV, vị Thượng thư - Đông các Đại học sĩ được vua Lê Thánh Tông trọng dụng đã chính luận hết sức sâu sắc về vai trò trí thức trong sự nghiệp xây đắp nguyên khí quốc gia và gửi “lời khuyên” các bậc đế vương cần chăm chút, tôn trọng sự đóng góp của kẻ sĩ cho đại nghĩa dân tộc và sứ mệnh của vương triều…
Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/chuyen-cau-hien-trong-dung-nhan-tai-150045.html
Comment (0)