Bà Nguyễn Thanh Giang – Tổng Giám đốc Tetra Pak Việt Nam nhận định: “Chúng tôi luôn có các chương trình ở các trường học để nói chuyện với các bé về quá trình nâng cao nhận thức về thu gom, tái chế bao bì. Chúng tôi cũng phát triển được các nhà tái chế, để đảm bảo công suất cho tất cả các bao bì hiện nay trên thị trường Việt Nam”.
Theo Liên minh Tái chế Bao bì PRO Việt Nam, lượng bao bì mà đơn vị này được các doanh nghiệp sản xuất ủy quyền để tổ chức tái chế nhằm đáp ứng quy định EPR dự kiến sẽ đạt 64.000 tấn trong năm nay, tăng khoảng 4 lần so với năm ngoái. Dù vậy các doanh nghiệp cho biết vẫn cần những hướng dẫn cụ thể hơn, hỗ trợ nhiều hơn từ chính sách.
Bà Chu Thị Kim Thanh – Giám đốc Vận hành, Liên minh Tái chế Bao bì PRO Việt Nam nhận định: “Với chi phí hỗ trợ từ EPR là một động lực thúc đẩy cho các doanh nghiệp tập trung hơn, sử dụng nguồn vật liệu thu gom trong nước thay bằng nhập khẩu, ví dụ như giấy. Tuy nhiên, vẫn còn một số loại vật liệu tôi thấy còn khó khăn. Việc nhập khẩu quá dễ dàng với chi phí rẻ hơn, chất lượng tốt hơn so với nguồn cung trong nước còn cần hỗ trợ nhiều hơn”.
Giới doanh nghiệp cũng kiến nghị sớm có được định mức chi phí tái chế (Fs), để có căn cứ lựa chọn hình thức đóng phí tái chế để thực hiện quy định EPR. Các chuyên gia cho rằng, định mức này cần được tính toán cân đối để đạt mục tiêu tăng lượng phế liệu được thu gom cho tái chế.
Một chính sách mới như EPR khi đi vào thực thi chắc chắn sẽ không thể trơn tru được ngay. Ông Mandal Arghya – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Sữa TH cho biết: “Tôi nghĩ quy định EPR hiện nay vẫn chưa thực sự được làm rõ và cụ thể. Do đó vẫn còn khoảng cách để mở rộng áp dụng cho toàn nền kinh tế. Vấn đề công nghệ tái chế còn nhiều hạn chế. Việc thu gom, vận chuyển các chất thải nông nghiệp hoặc các sản phẩm đã qua sử dụng để tái chế đòi hỏi các giải pháp logistics phức tạp và tốn kém. Hơn nữa, không phải tất cả các địa phương đều có hạ tầng đủ mạnh để xử lý và tái chế chất thải theo mô hình tuần hoàn. Điều này khiến việc triển khai kinh tế tuần hoàn ở quy mô lớn gặp nhiều trở ngại”.
Ông Đỗ Thái Vương – Phó Tổng Giám đốc Đối ngoại và Truyền Thông Suntory PepsiCo Việt Nam nêu ý kiến: “Đến thời điểm này đã một năm trôi qua kể từ lúc chính sách EPR có hiệu lực. Các doanh nghiệp vẫn thu gom, PRO cũng thu om. Nhưng câu trả lời cuối cùng đã đúng với quy chế mà Bộ đưa ra chưa thì vẫn chưa có câu trả lời. Đó là sự khó khăn. Và xin được góp ý, trong giai đoạn đầu tiên, EPR nên khuyến khích mọi người làm. Nếu mọi người chưa làm đồng bộ mà mình đưa ra một khung quá chặt, thì càng khó cho người thực hiện và chỉ có doanh nghiệp nào đang làm tốt sẽ làm tiếp, còn doanh nghiệp khác không làm”.
Sản phẩm tái chế, “đầu ra” của các quá trình tái chế mà chính sách EPR đang mong muốn hỗ trợ có giá cao hơn 20-30% so với các sản phẩm thông thường. Để khắc phục khó khăn này, ông Nguyễn Thành Tài – Phó Giám đốc Dự án Công ty tái chế Giải pháp xanh Bình Phước đưa ra đề xuất: “Cũng mong đề xuất một chính sách hợp tác giữa các doanh nghiệp là chia sẻ nguồn lực. Cùng phát triển những sản phẩm thiết kế thuận lợi, thân thiện hơn ngay từ đầu, dễ dàng tái chế hơn cho các nhà tái chế. Cùng hợp tác với nhau, sử dụng sản phẩm chéo với nhau, để giúp giảm thiểu chi phí, từ chi phí về tái chế, chi phí thiết kế ra sản phẩm. Như vậy, người tiêu dùng sẽ được lợi, lúc đó người ta mới có nhận thức thì mới tạo ra được nhu cầu lớn, đồng thời, các doanh nghiệp ở đây sẽ có những giá trị cạnh tranh nhất định”.
Cần cụ thể hóa chính sách sớm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn
Các chính sách mang tính dài hạn hơn để có thể tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế tuần hoàn cũng đang được nghiên cứu. Sau Quyết định 687, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã hoàn thiện Dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn để có khung pháp lý rõ ràng hơn, hỗ trợ cho cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp cũng như giới chuyên gia có chung kiến nghị, để thúc đẩy tốt hơn kinh tế tuần hoàn, các chính sách cần sớm được cụ thể hóa.
Nghiên cứu quốc tế cho thấy, năm 2021, khối lượng chất thải nhựa đã được thu gom tại Việt Nam chỉ có 770.000 tấn thực sự được đưa vào tái chế, chỉ chiếm khoảng 30%, 70% còn lại được xử lý bằng nhiều hình thức như chôn lấp hoặc đốt. Do đó, giới doanh nghiệp cho rằng, quy định bắt buộc phân loại rác tại nguồn cũng cần được thực hiện quyết liệt hơn mới có thể thúc đẩy các chuỗi tuần hoàn.
Bà Chu Thị Kim Thanh – Giám đốc Vận hành, Liên minh Tái chế Bao bì PRO Việt Nam cho biết: “Việc phân loại rác tại nguồn chúng ta cần phải làm ráo riết hơn cũng như phải có lộ trình để hạn chế dần phế liệu nhập khẩu thì chúng ta mới có thể phát triển được việc thu gom trong nước”.
Theo giới chuyên gia, các chính sách liên quan đến kinh tế tuần hoàn còn chưa hoàn thiện, thống nhất và cụ thể hóa. Đặc biệt là những tiêu chuẩn, quy chuẩn. Ví dụ như hàm lượng tái chế trong sản phẩm thì mới khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi.
Ông Hoàng Thành Vĩnh – Cán bộ chương trình phụ trách chất thải và kinh tế tuần hoàn, Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) chia sẻ: “Nếu như có chính sách của Nhà nước yêu cầu bắt buộc phải có 10% nhựa tái chế ở trong chai nước, thì nhà sản xuất sẽ đi theo. Và những chính sách khuyến khích nếu như có trên 10-20%, người ta sẽ được ưu đãi thì sẽ làm cho doanh nghiệp sẽ thực hiện, hành động”.
Một số chuyên gia kiến nghị, cần sớm lựa chọn các địa phương thuận lợi triển khai kinh tế tuần hoàn để triển khai mô hình thí điểm. Nhất là các địa phương tập trung nhiều khu công nghiệp.
PGS. TS. Nguyễn Lữ Phương – Phó Trưởng Khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh chia sẻ: “Những tỉnh có khu công nghiệp sẽ có nhiều sự tiêu tốn tài nguyên, phát sinh chất thải. Sẽ sử dụng cho việc tuần hoàn để giúp cho chính quyền của địa phương có thể định hướng tốt hơn, từ đó có thể đề xuất một chính sách cho 63 tỉnh thành”.
Có lẽ không phải ai cũng biết Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở Đông Nam Á triển khai quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất EPR. Điều này cho thấy sự quyết tâm, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trong việc cụ thể hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây sẽ là hành trình dài và khó khăn, đòi hỏi nỗ lực chung tay của tất cả các bên liên quan mới có thể thực hiện được. Trong đó cần phải vượt qua các thách thức về thể chế, hạ tầng, công nghệ và văn hóa, làm sao để mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp thực sự xem chất thải là tài nguyên; hạn chế tối đa việc sử dụng các sản phẩm có hại cho môi trường.
Nguồn: https://doanhnghiepvn.vn/kinh-te/kinh-te-tuan-hoan-da-tro-thanh-loi-the-canh-tranh-moi/20241026075449306