Xuân Ất Tỵ, 'điểm danh' một số người tuổi Tỵ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam

Việt NamViệt Nam02/02/2025

Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, cùng điểm lại một vài nhân vật tuổi rắn có dấu ấn trong lịch sử dân tộc.

Trong tư tưởng phương Đông, người tuổi rắn được coi là người có tài năng, tư duy nhanh nhạy và mềm dẻo. Trong lịch sử Việt Nam, nhiều nhân tài tuổi rắn đã xuất hiện và lưu danh.

Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, cùng Báo Điện tử VietnamPlus điểm lại một vài nhân vật tuổi rắn có dấu ấn trong lịch sử.

Bà Triệu (sinh năm Ất Tỵ 225-mất năm Canh Ngọ 248)

Theo Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bà Triệu tên húy là Triệu Thị Trinh hay Triệu Trinh Nương (bà còn được gọi là Nhụy Kiều Tướng quân hay Lệ Hải bà vương, quê ở Cửu Chân, huyện Nông Cống - nay thuộc vùng núi Quan Yên, miền Định Công-Thiệu Yên, Thanh Hóa) là nữ anh hùng dân tộc, lãnh đạo khởi nghĩa chống quân Ngô thời Bắc thuộc.

Bà cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt chiêu mộ quân binh, lập nghĩa quân chống lại sự đàn áp của giặc Ngô. Tuy nhiên, năm 248, Triệu Quốc Đạt mất, nghĩa quân bị giặc đàn áp dã man, bà đã chọn cái chết để giữ toàn khí tiết.

Về sau, thời vua Lý Nam Đế đã lập miếu thờ bà và truy phong làm Bậc chính anh hùng tài trinh nhất phu nhân.

Hình ảnh Bà Triệu trong tranh dân gian.

Cao Bá Quát (sinh năm Kỷ Tỵ 1809-mất năm Giáp Dần 1854)

Cao Bá Quát là nhà thơ nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam vào giữa thế kỷ 19. Tên hiệu của ông là Chu Thần hay Cúc Đường, ông sinh tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).

Sinh trưởng trong gia đình nghèo khó nhưng ông thể hiện tài năng văn hay chữ tốt, thơ phú hơn người. Vào khoảng năm 1834, ông thường có những buổi xướng họa với các danh sỹ đất Thăng Long. Sau khi qua đời, ông để lại cho nền văn chương Việt Nam bộ sách "Chu thần thi tập" - tập hợp 1531 bài thơ và 21 bài văn xuôi của ông bằng chữ Nôm và chữ Hán.

Nguyễn Ảnh Thủ (sinh năm Tân Tỵ 1821-mất năm Tân Mùi 1871)

Ông là liệt sỹ thời Cần Vương chống Pháp; sinh tại làng Tân Sơn Nhì, huyện Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh). Ông hưởng ứng phong trào dưới cờ nghĩa quân Trương Định, năm 1864 ông bị địch bắt và kết án tù.

Năm 1868, khi mãn hạn tù, ông tập hợp đội nghĩa quân tiếp tục chống Pháp. Năm 1871, đội nghĩa quân của ông giết được tên trưởng đồn Thuận Kiều, nhưng trong trận này ông cũng hy sinh.

Trần Trọng Khiêm (sinh năm 1821-mất năm Bính Dần 1886)

Ông là nhà yêu nước, người Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kỳ, trước cả nhà ngoại giao Bùi Viện. Sau này, ông đổi tên thành Lê Kim; quê quán: Xuân Lũng, Sơn Vi (nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).

Khoảng năm 1850, ông tới miền Viễn Tây Hoa Kỳ để tham gia đội tìm vàng đa sắc tộc. Sau đó, ông trở về California làm cộng tác viên cho tờ Alta California, Morning Post, sau đó làm cộng tác viên cho báo Daily Evening một thời gian.

Khoảng năm 1856, ông trở về Việt Nam, ông và một số người đứng ra khai phá, lập làng Định An thuộc phủ Tân Thành tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Sau đó, ông theo Võ Duy Dương mộ quân chống Pháp. Năm 1866, quân Pháp truy quét, đồn quân do ông cai quản thất thủ, ông đã tuẫn tiết bảo toàn danh dự.

Đào Tấn (sinh năm Ất Tỵ 1845-mất năm Đinh Mùi 1907)

Đào Tấn là một danh sỹ, nhà soạn tuồng cận đại nổi tiếng Việt Nam, thuộc dòng dõi Đào Duy Từ, quê ở thôn Vinh Thạnh, tổng Thời Tú, huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tên đầy đủ của ông là Đào Đăng Tấn, là vị quan thanh liêm thời nhà Nguyễn, giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh, Công bộ thượng thư.

Ông giỏi văn chương, là người có công sáng tạo ra nghề hát bội ở Bình Định. Trong bộ môn nghệ thuật sân khấu tuồng, ông là nhà soạn tuồng cao nhất về số lượng cũng như chất lượng từ trước tới nay.

Đào Tấn được coi là ông tổ của nghệ thuật tuồng Việt Nam.

Nguyễn Bá Học (sinh năm Đinh Tỵ 1857-mất năm Tân Dậu 1921)

Ông là nhà văn, quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội).

Ông theo đuổi nghiệp văn chương năm 1918 bằng việc viết truyện ngắn, chính luận và chọn dịch các bài Hán văn, Pháp văn đăng ở Tạp chí Nam Phong, Tạp chí Đông Dương.

Ông được giới văn học đánh giá là một trong hai cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện đại bằng Quốc ngữ trong văn học Việt Nam.

Trong vòng ba năm (từ năm 1918 đến 1921), ông viết 7 truyện ngắn đăng trên Tạp chí Nam Phong. Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu nói: "Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông."

Tống Hữu Định (sinh năm Kỷ Tỵ 1869-mất năm Nhâm Thân 1932)

Tống Hữu Định là người khởi xướng bộ môn ca kịch cải lương, hiệu Tịnh Trai, tục gọi là Thầy Phó Mười Hai (vì ông làm phó tổng và là người con thứ 12 trong gia đình); quê quán ở làng Long Châu, tỉnh Vĩnh Long. Ông nổi tiếng là người hào hoa, say mê âm nhạc dân tộc. Chính ông là người có sáng kiến khai sinh ra điệu hát "ca ra bộ" (năm 1914) - tiền thân của nghệ thuật hát cải lương sau này.

Trong lịch sử bộ môn hát cải lương Nam Bộ, các nhà nghiên cứu đã dành cho ông một chỗ đứng quan trọng trong sự hình thành và phát triển của bộ môn này.

Phan Phát Sanh (sinh năm Quý Tỵ 1893-mất năm Bính Thìn 1916)

Tự là Phan Xích Long, quê ở Chợ Lớn. Năm 1911, ông được tôn làm lãnh tụ phong trào nông dân chống Pháp mang màu sắc tôn giáo. Sau đó, ông lập căn cứ ở núi Thất Sơn và in truyền đơn rải khắp các chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định... kêu gọi nhân dân nổi lên chống Pháp giành độc lập.

Ngày 21/3/1913, ông bị địch bắt ở Phan Thiết và bị kết án khổ sai. Sau vụ phá ngục vào tháng 2/1916, quân Pháp đã thẳng tay tàn sát 57 vị "Vô danh anh hùng" gồm 38 người xử công khai và 19 người bị giết tại chỗ.

Biến cố bi thương này được các sử gia gọi là "Quái kịch Xích Long ở Nam kỳ." Đây cũng là một trang sử hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Dương Bạch Mai (sinh năm Ất Tỵ 1905-mất năm Giáp Thìn 1964)

Là nhà hoạt động chính trị, quê ở xã Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Sau một thời gian du học ở Pháp, Liên Xô, năm 1932, ông về nước, sống và hoạt động tại Sài Gòn. Cũng trong thời gian này, ông cộng tác với các báo La Cloche fêlée, La Lutte, Mai, Dân Quyền.

Năm 1945, ông là một trong những người lãnh đạo cướp chính quyền ở Sài Gòn. Năm 1946, ông là thành viên của phái đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị trù bị Đà Lạt và trở nên nổi tiếng với những ý kiến rất thẳng thừng với các thành viên người Pháp. Sau đó, ông được điều ra làm việc ở Trung ương.

Mai Thọ Truyền (sinh năm Ất Tỵ 1905-mất năm Quý Sửu 1973)

Ông là nhà nghiên cứu Phật giáo, quê ở Bến Tre. Sinh thời, ông là một trong những đốc phủ sứ ngoại hạng và có công trong việc sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và Hội Phật học Nam Việt. Ông viết nhiều chuyên luận về Phật giáo ở cả hai miền Bắc-Nam cũng như dịch thuật một số kinh sách đạo Phật.

Thập niên 60 của thế kỷ 20, ông đã giữ chức Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn và là người có công đóng góp vào việc phục chế một số tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam.

Hồ Văn Huê (sinh năm Đinh Tỵ 1917-mất năm Bính Thìn 1976)

Ông là bác sĩ quân y cấp hàm đại tá, quê ở thị xã Tân An, tỉnh Long An. Từ năm 1947, ông đã cùng với nhiều y, bác sỹ, dược sỹ khác mở Phòng Dược Khu 7, bào chế thành công nhiều loại thuốc tân dược phục vụ cho công tác phòng, chữa các bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết lỵ, sâu quảng.

Ông đã từng lặn lội qua khắp các chiến trường miền Nam và từng giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Y tế Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, Phó cục trưởng Cục Hậu cần miền, Trưởng phòng Quân y miền...

Lê Văn Thới (sinh năm Đinh Tỵ 1917-mất năm Quý Hợi 1983)

Ông là nhà khoa học được phong hàm giáo sư, quê quán ở Gò Dầu, Tây Ninh. Ông đã từng được học bổng du học ở Pháp vào thập niên 40 của thế kỷ trước và được tín nhiệm phân công phụ trách khảo cứu nhiều đề tài hóa học hữu cơ cơ cấu, làm Trưởng ban khảo cứu cây thông của Viện Đại học Bordeaux, Pháp.

Từ năm 1958, sau khi về nước, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành đại học, trong khảo cứu khoa học và đặc biệt quan tâm đến việc đặt nền móng tân tiến cho nền thuật ngữ Việt Nam - một công trình của Hoàng Xuân Hãn đã khởi xướng.

Nguyễn Tuấn Trình - nhà thơ Thâm Tâm (sinh năm Đinh Tỵ 1917-mất năm Canh Dần 1950)

Nguyễn Tuấn Trình là nhà thơ với bút danh Thâm Tâm, quê ở thị xã Hải Dương. Năm 1938, ông vẽ tranh và sáng tác văn học. Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm và Truyền bá quốc ngữ, Phổ thông bán nguyệt san.

Nhà thơ-nhà báo Thâm Tâm. (Ảnh tư liệu)

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tham gia văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập Báo Tiên Phong (1945-1946); sau đó ông nhập ngũ, làm thư ký tòa soạn Báo Vệ quốc quân (sau là Báo Quân đội Nhân dân).

Trong số các tác phẩm của ông, "Tống biệt hành" là một thi phẩm nổi tiếng với một phong cách thơ hòa hợp giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí yêu nước rất cao./.


Nguồn

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cùng tác giả

Happy VietNam

Tác phẩm Ngày hè

No videos available