Vấn đề của hệ thống ngân hàng là quản trị nên theo đại biểu Quốc hội, cần xác định “ông chủ” sở hữu thực của nhà băng mới ngăn chặn, xử lý được sở hữu chéo, thao túng.
Chiều 23/11, Quốc hội thảo luận Luật tổ chức tín dụng (sửa đổi). Cách nào giảm sở hữu chéo, thao túng và chi phối hệ thống ngân hàng nhận được nhiều góp ý từ các đại biểu.
Theo dự thảo Luật Tổ chức tín dụng (sửa đổi), tỷ lệ sở hữu cổ phần với cổ đông cá nhân được đề nghị giữ như hiện hành, tức 5%. Giới hạn cho cổ đông là tổ chức (gồm cả số cổ phần cổ đông đó sở hữu gián tiếp) giảm từ 15% xuống 10%; cổ đông và người có liên quan giảm từ 20% xuống 15%.
Nhắc thực tế vụ việc của Ngân hàng Sài Gòn – SCB, ông Trịnh Xuân An, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Quốc phòng an ninh, nhìn nhận sở hữu chéo, chi phối, thao túng là các thủ thuật rất tinh vi và thường là vô hình. Ông nhận xét, các quy định đưa ra tại dự thảo về giảm tỷ lệ sở hữu, siết hạn mức cấp tín dụng và mở rộng đối tượng không được đảm nhiệm chức vụ lại là các biện pháp hữu hình.
“Dùng các công cụ hữu hình để xử lý cái vô hình sẽ không hiệu quả. Vấn đề của hệ thống ngân hàng hiện nay là quản trị, nên cần xác định cá nhân, tổ chức nào thực sự là chủ sở hữu của nhà băng mới chống được sở hữu chéo, thao túng”, ông Trịnh Xuân An nói.
Thực tế, tỷ lệ cá nhân, tổ chức nắm giữ cổ phần tại ngân hàng hoặc vay vốn có thể dễ dàng được thống kê, theo dõi. Tuy nhiên, các ông chủ thực sự nắm quyền chi phối lại không lộ diện trên hồ sơ nếu họ nhờ hoặc thuê người đứng tên hộ cổ phần hoặc lập doanh nghiệp “ma” để vay vốn.
Đơn cử, theo kết luận mới nhất của cơ quan điều tra (Bộ Công an) tại Ngân hàng Sài Gòn (SCB), hồ sơ sổ sách chỉ thể hiện bà Trương Mỹ Lan nắm giữ 4,98% vốn điều lệ. Nhưng trên thực tế, bà Lan sở hữu hơn 91% cổ phần nhà băng này thông qua nhờ 27 pháp nhân, cá nhân đứng tên hộ, tính đến tháng 10/2022. Từ 2012 đến 2022, trên 90% dư nợ cho vay của SCB chảy vào nhóm của bà Lan thông qua hàng ngàn công ty “ma” được dựng lên.
Ông Phạm Văn Hòa chung quan điểm cần “hàng rào” để ngăn sở hữu chéo, thao túng ngân hàng. Song đại biểu tỉnh Đồng Tháp này lưu ý, cần giám sát trường hợp “ông chủ” của ngân hàng là doanh nghiệp lớn, tránh lại xảy ra tình trạng như Ngân hàng SCB. Theo đó, tiền gửi của người dân vào ngân hàng không tới người cần vay, còn cổ đông lớn, ông chủ các nhà băng lại tiếp cận dễ dàng.
“Giảm tỷ lệ sở hữu, siết cấp tín dụng là cần, nhưng quan trọng hơn phải xử lý được tình trạng ‘ông chủ’ đứng sau ngân hàng. Nếu không kịp thời ngăn chặn, khả năng xảy ra thêm một SCB”, ông Hòa lo ngại.
Ở khía cạnh này, bà Nguyễn Thị Việt Nga, Phó trưởng đoàn chuyên trách tỉnh Hải Dương nêu thực tế, có hiện tượng tập trung cho vay quá lớn vào một số ít khách hàng hoặc cho vay doanh nghiệp “sân sau”, nên cần sửa quy định siết tỷ lệ sở hữu, hạn mức cấp tín dụng cho khách hàng.
Tuy nhiên, bà Nga lo ngại việc giảm ngay giới hạn cấp tín dụng sẽ gây tác động đột ngột đến hoạt động của các ngân hàng và vốn tập trung vào một nhóm khách hàng. Vì thế, bà đề nghị cần lộ trình thực hiện giảm tỷ lệ sở hữu vốn, dư nợ tín dụng cho vay.
Để xử lý dứt điểm sở hữu chéo, chi phối trong ngân hàng, ông Trịnh Xuân An đề nghị dự luật cần bổ sung quy định về minh bạch thông tin của các cá nhân, tổ chức là cổ động của ngân hàng thương mại, thay vì giảm tỷ lệ sở hữu, và xác định nghĩa vụ công bố thông tin với cổ đông và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của ngân hàng trên một mức cụ thể. Cùng đó, phải kiểm soát được dòng tiền, nguồn tiền góp vốn thông qua cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt và áp dụng kiểm soát dữ liệu cá nhân.
“Dòng tiền không phải tự nhiên có, phải từ đâu, cá nhân nào, vụ việc của Vạn Thịnh Phát cho chúng ta kinh nghiệm”, ông nói và kiến nghị giữ nguyên các quy định hiện hành về tỷ lệ sở hữu và hạn mức cấp tín dụng. Tức là, tỷ lệ sở hữu tối đa cổ đông cá nhân tại ngân hàng là 5%; cổ đông và người liên quan 20% và tổ chức 15%.
Bởi theo ông, việc giảm các tỷ lệ này có thể dẫn tới xáo trộn không cần thiết với nền kinh tế, hệ thống ngân hàng, khi dự án tốt cần vốn lại không thể vay do hạn mức cấp tín dụng bị giảm.
Liên quan đến câu chuyện “nhờ người khác đứng tên trong ngân hàng”, dự thảo bổ sung quy định về nghĩa vụ cổ đông không được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng dưới tên cá nhân, pháp nhân, trừ trường hợp ủy thác (điểm c khoản 1 Điều 62).
Giải trình sau đó, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Thị Hồng, cho hay việc đưa ra quy định siết tỷ lệ sở hữu của cổ đông và người liên quan hay giảm dư nợ tín dụng là căn cứ xử lý khi có sai phạm. Thực tế khó xử lý triệt để sở hữu chéo, chi phối trong ngân hàng chỉ với những quy định này, quan trọng là tổ chức thực hiện, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Bà phân tích, quy định tỷ lệ sở hữu của cá nhân là 5% nhưng nếu cổ đông cố tình nhờ người khác đứng tên, thì việc xử lý thao túng rất khó. “Vì thế cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành ngân hàng với các bộ, ngành, như có hệ thống thông tin doanh nghiệp, cá nhân để xác thực họ là ai, liên quan thế nào tới doanh nghiệp vay vốn”, bà Hồng chia sẻ.
Tuy nhiên, ông Trịnh Xuân An nhận xét, quy định này không cụ thể, khó nhận diện thế nào là góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng dưới tên của cá nhân, pháp nhân khác. “Cơ sở, cách thức nào để phòng ngừa, đặc biệt là trước ma trận ‘hệ sinh thái’ do các ‘ông bầu’ hay các ‘madam’ dựng lên để chi phối ngân hàng”, ông đặt vấn đề.
Dù vậy, ông Trịnh Xuân An cho rằng Việt Nam hiện có khoảng 50 ngân hàng lớn, nhỏ. Có nhà băng “sức khỏe” tốt nhưng cũng có ngân hàng yếu thì nên xử lý.
“Số liệu nhiều như vậy có cần thiết không? Một hệ thống ít, nhưng tinh và khỏe, tốt hơn cho nền kinh tế”, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Quốc phòng an ninh góp ý, và đề nghị chưa thông qua luật này ở kỳ họp 6.
Do còn nhiều ý kiến khác nhau, nên Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định yêu cầu Ủy ban Kinh tế cùng các cơ quan của Chính phủ tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện dự thảo luật, để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp gần nhất.