Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giữ vai trò quan trọng trong định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Tập đoàn kinh tế nhà nước được hình thành, phát triển trên cơ sở của Quyết định số 91-TTg, ngày 7-3-1994 của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh”; Quyết định số 58/2005/QĐ-TTg, ngày 23-3-2005, “Về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam”…; đặc biệt, Hội nghị Trung ương 3 khoá IX ban hành Nghị quyết “Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”; Nghị định số 101/2009/NĐ-CP, ngày 5-11-2009, của Chính phủ, “Về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước”; Nghị định số 69/2014/NĐ-CP, ngày 15-7-2014, “Về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước”… Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khoá XII “Về đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước” xác định mục tiêu: Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế… Hiện nay, Việt Nam có 10 tập đoàn kinh tế nhà nước: Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo việt; Tập đoàn Dệt may Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam; Tập đoàn Điện lực Việt Nam; Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Công nghiệp Hoá chất Việt Nam; Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
Điều 194, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước như sau: 1. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của luật này. 2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty có công ty mẹ, công ty con và các công ty thành viên khác. Công ty mẹ, công ty con và mỗi công ty thành viên trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập theo quy định của pháp luật(1). Từ căn cứ pháp lý nêu trên, vai trò của tập đoàn kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Một là, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đầu tàu trong việc dẫn dắt nền kinh tế và bảo đảm các vấn đề về an sinh xã hội của đất nước.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia”(2). Vai trò các tập đoàn kinh tế nhà nước trong dẫn dắt nền kinh tế nhà nước là rất quan trọng, quyết định đến sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế đất nước. Các tập đoàn kinh tế nhà nước không chỉ đem lại lợi ích cho quốc gia, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thuế cho nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trên trường quốc tế…, mà còn góp phần quan trọng vào giải quyết việc làm cho người lao động, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là những nhà lãnh đạo, quản lý, kỹ sư có trình độ tay nghề cao. Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế nhà nước ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện đến các lĩnh vực, hoạt động của đất nước. Mối quan hệ, liên doanh, liên kết của các tập đoàn kinh tế bảo đảm cho quá trình vận hành đồng bộ, thông suốt của nền kinh tế đất nước. Những vấn đề lớn của đất nước như dịch bệnh, thiên tai… đều có sự chung tay, góp sức của các tập đoàn kinh tế nhà nước và chính sự ủng hộ, chia sẻ với những khó khăn đó đã góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển.
Hai là, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giữ vai trò quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội của Đảng, Nhà nước.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng – an ninh mang tầm chiến lược quốc gia mà các doanh nghiệp, thành phần kinh tế khác không thể đảm nhiệm được hoặc đảm nhiệm nhưng không hiệu quả do hạn chế về tài chính, năng lực… Do đó, ngoài việc sản xuất, kinh doanh, các tập đoàn kinh tế còn thực hiện các nhiệm vụ chính trị – xã hội do Đảng, Nhà nước giao gắn với bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh năng lượng, quốc phòng – an ninh, chính sách xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…
Ba là, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước là lực lượng quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đem lại lợi ích cho đất nước.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài”(3). Theo đó, việc các tập đoàn kinh tế nhà nước sở hữu nguồn lao động dồi dào, trình độ khoa học – công nghệ kinh doanh, sản xuất hiện đại, có khả năng liên doanh, liên kết với các tập đoàn lớn, công ty lớn của thế giới sẽ góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đất nước hiện nay. Các tập đoàn kinh tế nhà nước xây dựng nên thương hiệu, hình ảnh từ chính năng lực hoạt động thực tiễn, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho nhân dân, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực trạng thực hiện vai trò của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã thực hiện tốt vai trò của mình là đầu tàu trong dẫn dắt nền kinh tế đất nước, có nhiều đóng góp vào thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; đặc biệt, trước tác động của đại dịch COVID-19, những biến động phức tạp của tình hình thế giới, nhất là xung đột giữa Nga và Ukairane…, các tập đoàn kinh tế nhà nước đã tích cực triển khai các nhiệm vụ chính trị – xã hội, duy trì thường xuyên các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng đầy đủ các nhu yếu phẩm cho các tầng lớp nhân dân, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong quá trình hoạt động, các tập đoàn kinh tế nhà nước luôn được sự quan tâm, ưu ái của Nhà nước trong tiếp cận các nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội đất nước, như: nguồn vốn, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thị trường tiêu thụ, đối tác kinh doanh, đất đai, cơ hội phát triển… Vì vậy, mặc dù chịu nhiều tác động bất lợi của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, song lợi nhuận của các tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn duy trì ở mức ổn định. Năm 2022, tổng lợi nhuận trước thuế của 18/19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt 39.219 tỷ đồng (bằng 173% kế hoạch và bằng 117% so với năm 2021; tổng doanh thu của 19 tập đoàn kinh, tổng công ty nhà nước ước đạt 1,1 triệu tỷ đồng (bằng 114% kế hoạch và 133% so với năm 2021; 15/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về doanh thu; 17/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về lợi nhuận trước thuế; 16/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về nộp ngân sách nhà nước(4). Tiêu biểu, năm 2022, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) có doanh thu hợp nhất đạt 163,8 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 6,1%, lợi nhuận trước thuế đạt 43,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2021, nộp ngân sách nhà nước 38 nghìn tỷ đồng(5); Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam có doanh thu đạt 931,2 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 82,2 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước đạt 170,6 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 9,5% tổng thu ngân sách cả nước(6)…
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vai trò của tập đoàn nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn một số hạn chế, yếu kém. Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn kinh tế nhà nước chưa tương xứng với nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập sâu rộng quốc tế; một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn thua lỗ, không đạt được chỉ tiêu đề ra, đầu tư phát triển thiếu trọng tâm, trọng điểm, giải ngân vốn còn chậm, nhiều dự án chậm tiến độ, không đi vào hoạt động gây lãng phí, thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Năm 2021, cả nước có 58/673 doanh nghiệp (chiếm 9% tổng số doanh nghiệp nhà nước) có lỗ phát sinh, với tổng số lỗ là 15.785 tỷ đồng; có 138/673 doanh nghiệp (chiếm 21% tổng số doanh nghiệp nhà nước) còn lỗ luỹ kế với tổng số lỗ luỹ kế là 50.152 nghìn tỷ đồng; có 9/75 công ty mẹ chưa bảo toàn được vốn chủ sở hữu. Cụ thể: Công ty mẹ – Tập đoàn Hóa chất Việt Nam lỗ lũy kế là 2.613 tỷ đồng; Công ty mẹ – Tổng công ty Đường sắt Việt Nam lỗ lũy kế 1.822 tỷ đồng; Công ty mẹ – Tổng công ty Cà phê Việt Nam lỗ lũy kế 453 tỷ đồng; Công ty mẹ – Công ty TNHH MTV Đầu tư tài chính nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh lỗ lũy kế 426 tỷ đồng; Công ty mẹ – Tổng công ty 15 lỗ lũy kế 156 tỷ đồng(7)… Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa đầy đủ, toàn diện, thống nhất, chưa phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng chủ sở hữu nhà nước với các tập đoàn kinh tế; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa được tiến hành thường xuyên, tập trung vào khâu yếu, mặt yếu để phát hiện sai phạm, xử lý kịp thời; người đứng đầu một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành còn hạn chế, thậm chí còn để xảy ra những sai phạm phải xử lý theo quy định của pháp luật… “Hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đấu tư. Không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự án đầu tư hàng nghìn tỷ đồng “đắp chiếu”, làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và nợ công quốc gia, gây bức xúc trong nhân dân”(8).
Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trên bao gồm cả khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan: 1- Những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; 2 – Những cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa đầy đủ, toàn diện, thống nhất; 3 – Sự biến động của thị trường bất động sản, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán; 4 – Lạm phát, lãi suất tăng cao ở nhiều nước trên thế giới ảnh hưởng đến quá trình đầu tư, hợp tác sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước… Về nguyên nhân chủ quan: 1 – Nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tập đoàn, tổng công ty nhà nước đối với sự phát triển ổn định, bền vững đất nước chưa sâu sắc, toàn diện; 2 – Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, đặc biệt năng lực cụ thể hoá, thể chế hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của một số người đứng đầu tập đoàn nhà nước, tổng công ty nhà nước chưa đầy đủ, còn chậm, chưa đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, có biểu hiện “lợi ích nhóm”, thao túng thị trường, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực; 3 – Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý nhà nước đối với tập đoàn, tổng công ty nhà nước có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao.
Một số giải pháp phát huy vai trò của tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
Một là, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện thể chế pháp luật tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát triển kinh tế – xã hội của tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số… Tập trung sửa đổi những quy định, mâu thuẫn, chống chéo cản trở phát triển kinh tế”(9). Theo đó, các cơ quan, chức năng có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét, rà soát, ban hành những quy định pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, đầy đủ hơn về mô hình tổ chức, cơ chế vận hành của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; thực hiện cơ chế một cửa, cắt giảm các văn bản cũ không còn phù hợp, thay thế văn bản mới, tách chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước, bảo đảm cho tập đoàn kinh tế phát triển năng động, sáng tạo vì lợi ích quốc gia – dân tộc; có thể cho phép thành lập một tổ chức chuyên trách chủ đại diện là sở hữu quản lý nhà nước ở các tập đoàn kinh tế nhà nước; từ đó sẽ hạn chế, kiểm soát được tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước; đồng thời là cơ sở quy rõ trách nhiệm người đứng đầu trong quản lý, điều hành hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước. Đảng, Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn, tổng công ty khai thác tiềm năng, lợi thế phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; đặc biệt, cần điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện văn bản có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của từng tập đoàn, tổng công ty nhà nước, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của tập đoàn, tổng công ty, nếu để xảy ra sai phạm, không hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra phải nghiêm khắc chịu trách nhiệm. Các cơ chế, chính sách hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp, hiệu quả hơn, tôn trọng quy luật khách quan của quy luật thị trường; kịp thời tháo gỡ, khó khăn, vướng mắc về pháp luật, không để những rào cản về mặt thể chế ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng sản xuất, kinh doanh.
Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước đã giao phó; thực hiện nghiêm túc Thông báo số 40-TB/TW, ngày 14-9-2017, “Về đề án thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp”; tích cực, chủ động nắm bắt khó khăn, vướng mắc, điểm ngẽn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, kịp thời giải quyết theo phạm vi, quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, địa phương xây dựng quy chế phối kết hợp hoạt động bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, thông suốt; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước ở các dự án, nhất là dự án còn tồn đọng lâu ngày chưa được xử lý. Nâng cao công tác tham mưu, đề xuất cho Chính phủ những nội dung có liên quan đến việc thực hiện các dự án còn chậm tiến độ, những vấn đề mới phát sinh. Công tác quản lý, phân bổ ngân sách cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phù hợp, hiệu quả, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch; có kế hoạch kiểm tra tiến độ, chất lượng thực hiện các công trình, dự án của các công ty mẹ, công ty con và có hình thức, biện pháp xử lý kịp thời nếu phát hiện sai phạm. Làm tốt công tác quản lý cán bộ chủ chốt ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo đúng quy định phân cấp, phân quyền của Đảng, Nhà nước hiện nay. Thường xuyên rà soát, phát hiện và đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản mới để nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Người đứng đầu tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị; có năng lực quản trị, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hành động mạnh mẽ, quyết liệt. Xây dựng văn hoá từ chức đối với người đứng đầu tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh yếu kém, thua lỗ.
Bốn là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đối với tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty của Nhà nước, nhất là đối với tập đoàn, tổng công ty để xảy ra nhiều yếu kém, sai phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các dự án, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước. Xây dựng cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước phù hợp, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; nâng cao tính chủ động, tính kế hoạch trong thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm “từ sớm, từ xa” để cảnh báo, răn đe, ngăn chặn những sai phạm có thể xảy ra ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát phải khách quan, công tâm, công khai, minh bạch, chỉ ra được những sai phạm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đề xuất phương hướng, biện pháp khắc phục hạn chế, thiếu sót đã chỉ ra; xử lý theo đúng quy định pháp luật đối với sai phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, sai đến đâu xử lý đến đó. Những tập đoàn, tổng công ty làm ăn thua lỗ kiên quyết cổ phần hóa, giải thể, không để kéo dài. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu tập đoàn, tổng công ty nhà nước với việc phê duyệt và tổ chức thực hiện đề án cơ cấu lại doanh nghiệp, tổ chức và giám sát việc triển khai thực hiện có hiệu quả đề án đã được phê duyệt. Tăng cường công tác kiểm soát quyền lực của người đứng đầu tập đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy người đứng đầu tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra sai phạm, thua lỗ, tổn thất cho nền kinh tế đất nước.
Năm là, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của tập đoàn kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nâng cao năng lực cạnh trạnh của các tập đoàn kinh tế nhà nước là việc làm quan trọng và cần thiết, nhằm giữ vững và mở rộng thị trường trong nước, từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh các thị trường trong khu vực và trên thế giới, góp phần xây dựng thương hiệu, hình ảnh của quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế. Muốn vậy, các tập đoàn kinh tế nhà nước cần tái cơ cấu, đổi mới toàn diện, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, tập trung vào lĩnh vực chủ đạo, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh, chất lượng các sản phẩm chủ lực, xây dựng, bồi đắp uy tín, thương hiệu…/.
——————————-
(1) Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 59/2020/QH14, ngày 17-6-2020 về Luật Doanh nghiệp.
(2), (3), (9) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr.135, 135, 132
(4) Minh Ngọc: “Vượt 73% kế hoạch lợi nhuận trước thuế, 18/19 doanh nghiệp thuộc Uỷ ban Quản lý vốn phục hồi và khởi sắc”, https://baochinhphu.vn, ngày 15-12-2022
(5) Minh Sơn: “Viettel đạt doanh thu hợp nhất 163,8 nghìn tỷ đồng năm 2022”, https://www.vietnamplus.vn, ngày 3-1-2023
(6) Anh Sơn: “Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đạt doanh thu 931,2 nghìn tỷ đồng năm 2022”, https://daibieunhandan.vn, ngày 10-1-2023
(7) Văn Duẩn: “Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước thua lỗ hàng ngàn tỷ đồng, https://nld.com.vn, ngày 14-10-2022
(8) Nguyễn Phú Trọng: Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 5 khoá XII của Đảng, https://www.hcmcpv.org.vn, ngày 5-5-2017