Tư tưởng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh

Báo Quốc TếBáo Quốc Tế07/03/2025

Trong bất cứ cuộc cách mạng nào trong lịch sử, nhất là các cuộc kháng chiến giành độc lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia, xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế…, nhân tố có ý nghĩa quyết định làm nên thắng lợi đều xuất phát từ đoàn kết nội bộ lực lượng các mạng, đoàn kết dân tộc và tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân các nước trên thế giới.


Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng Việt Nam ở thế kỷ XX, một người am hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc và nhiều cuộc cách mạng trên thế giới đã xác định tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết ngay từ khi mới bước vào con đường đấu tranh, tìm đường cứu nước. Tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” của Người đã trở thành đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. (Nguồn: TTXVN)
Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. (Nguồn: TTXVN)

1. Tin vào dân, dựa vào dân trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống: “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Nguyên tắc này của Người thống nhất biện chứng với nguyên lý Marxist “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” nhưng nội hàm khái niệm quần chúng của Người rộng hơn quan niệm của không ít nhà cách mạng cùng thời. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, kính dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì dân, phục vụ dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy chiến lược và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc sống còn đó được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”, và “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”.

Có thể khái quát nguyên tắc này thành những luận điểm chủ yếu sau đây: Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết; dân là chủ thể đại đoàn kết; dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng; dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, của hệ thống chính trị cách mạng.

Khái quát trên có thể tìm thấy ngọn nguồn ngay từ trong những lời ngắn gọn như là Tuyên ngôn về dân của Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể (thời điểm Hồ Chí Minh viết bài này là năm 1949, Đảng hoạt động bí mật, nên gọi là Đoàn thể) từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên /Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1

Với Hồ Chí Minh thì nguyên tắc nhất quán, đại đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo. Đây là một nguyên tắc cốt lõi phân biệt chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của một số nhà yêu nước và một số lãnh tụ cách mạng khác. Giáo sư Trần Văn Giàu đã có một nhận xét tinh tế rằng: đến Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ còn là tình cảm của “người chung một nước phải thương nhau cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên cả một cơ sở lý luận.

Bác thường viết những câu thơ ngắn gọn, xúc tích dễ hiểu nhắn nhủ mọi người dân đoàn kết làm cách mạng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”. “Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Chỉ một người/ Nhắc không đặng. Nhưng khi nhiều người hợp sức lại thì: “Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Nhiều người nhắc/Nhắc lên đặng. Và rút ra kết luận: Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc gì khó/ Làm cũng xong”.

2. Nền tảng vững chắc khối đại đoàn kết chính là bảo đảm những lợi ích tối cao của toàn dân tộc và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là quyền thiêng liêng của con người không ai có thể xâm phạm được.

Song, con người không thể sống riêng lẻ mà phải sống với xã hội, sống trong cộng đồng quốc gia - dân tộc. Vì vậy, quyền của con người phải dựa trên cơ sở quyền của cộng đồng, quyền của dân tộc. Từ thực tiễn khách quan của các quốc gia dân tộc bị nô dịch trên thế giới, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của cha ông ta và tiếp thu sáng tạo tư tưởng nhân quyền và dân quyền của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đặc biệt là tư tưởng giải phóng dân tộc và giai cấp của chủ nghĩa Marx-Lenin, Hồ Chí Minh đã phát triển thành quyền của dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thề giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập... Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”2.

Đây là một điểm sáng, một tinh hoa độc đáo trong tư duy triết học- chính trị của Hồ Chí Minh. Nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và triết học nổi tiếng trên thế giới đều thừa nhận cống hiến sáng tạo này của Người.

Nhà triết học Singô Sibata (Nhật Bản) trong tác phẩm nhan đề “Việt Nam và những vấn đề tư tưởng” xuất bản ở Tokyo năm 1968 đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát hiện quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình và tất cả mọi dân tộc đều có thể và cần phải thực hiện nền độc lập tự chủ. Sự khẳng định này gắn liền với những cống hiến lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và có được điều đó là do Cụ Hồ Chí Minh đã nhận thức đầy đủ những đặc thù dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc”.

Không có gì quý hơn độc lập tự do là lẽ sống và là một nội dung cơ bản trong tư tưởng cách mạng của Hổ Chí Minh. Đó cũng chính là sức mạnh thu phục lòng người và là chất keo kết dính toàn dân tộc. Nó là nguồn gốc của niềm tin và ý chí chiến đấu kiên cường của Người, của dân tộc, là nhiệm vụ cơ bản lâu dài và cũng là nhiệm vụ cấp bách và nóng bỏng nhất của cả dân tộc Việt Nam trong những năm tháng đang phải sống đau khổ, quằn quại và phẫn uất trong cảnh nước nhà bị đế quốc thực dân thống trị. Song, đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn luôn gắn liền với tự do và hạnh phúc của Nhân dân. Người tuyên bố: "Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập không có nghĩa gì”.

Không có gì quý hơn độc lập, tự do - tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh vừa có bệ đỡ của quá khứ, phản ánh được khát vọng của hiện tại và soi sáng tương lai của cả dân tộc, vừa hợp với chính nghĩa của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Đó chính là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Bài học về tư duy và tư tưởng Hồ Chí Minh cho những vấn đề hiện đại
Nhìn vào những thành tựu của Việt Nam hôm nay, có thể thấy rằng nhiều tầm nhìn và mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực. (Ảnh tư liệu)

3. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công” là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế. Đồng thời với việc nhận thức, giải quyết đúng quan hệ giai cấp - dân tộc, trong nguyên tắc chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh còn bao hàm sự kết hợp chặt chẽ đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế.

Cũng như việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, mục tiêu đoàn kết quốc tế trước hết và trên hết nhằm phục vụ mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do của Tổ quốc. Vượt qua sự hạn chế của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh đã đặt Việt Nam trong bối cảnh chung của tình hình thế giới và coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.

Ngay từ những ngày đầu tiên hoạt động cách mạng, từ trên các diễn đàn và báo chí quốc tế, Hồ Chí Minh đã không ngừng kêu gọi sự đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, giữa nhân dân thuộc địa với phong trào công nhân thế giới. Và trên thực tế, Người đã tổ chức Hội Liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng khổ” và tham gia Quốc tế cộng sản.

Vượt qua những thiên kiến hẹp hòi về dân tộc, chủng tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy những nét chung của các dân tộc thuộc địa và lên tiếng kêu gọi “Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta. Trong cuộc chiến đấu của chúng ta, chúng ta không cô độc, vì chúng ta có tất cả dân tộc của chúng ta ủng hộ và vì những người Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính đứng bên cạnh chúng ta”3.

Trong giai đoạn này khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!” của Người (Truyền đơn kêu gọi của báo Paria-Người cùng khổ,1923,) đã vang lên giữa Paris - trung tâm thông tin của thế giới đương đại, có ý nghĩa như là sự tiếp nối và phát triển nâng lên một tầm cao mới hai khẩu hiệu chiến lược của hai lãnh tụ kiệt xuất tiền bối của giai cấp vô sản: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” (Karl Marx) và “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” (V.I. Lenin).

Từ cách nhìn nhận cơ bản ấy, chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã thiết lập được mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam. Trong suốt tiến trình lịch sử, đặc biệt là vào những giờ phút thử thách gay go, ngọn cờ độc lập tự do luôn luôn được giương cao, tính chất chính nghĩa ngày càng sáng tỏ, phù hợp với xu thế chung của cách mạng, với nguyện vọng chung của đại đa số nhân dân thế giới.

Chính vì vậy mà xuất hiện những quan hệ biện chứng và rất có hiệu quả, mục tiêu độc lập, tự do ngày càng được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ và sự đồng tình ủng hộ đó đã góp phần đưa cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay Đảng và Nhà nước ta càng cần tiếp tục xác định đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn gốc sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vắn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội

Mới đây, phát biểu tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu, cần thống nhất nhận thức về vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yêu cầu cấp bách, hơn bao giờ hết, ưu tiên hàng đầu củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, đây là một trong những giải pháp then chốt đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.


1 Hồ Chí Minh toàn tập, T5 , 1995, tr.698

2 Tuyên ngôn độc lập, 02/9/1945

3 Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1,1995, tr23-24



Nguồn: https://baoquocte.vn/tu-tuong-chien-luoc-dai-doan-ket-ho-chi-minh-306478.html

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Miền biển xanh, cát trắng, nắng vàng
Huyền thoại dương cầm Yiruma: 'Công nghiệp âm nhạc Việt Nam đang lớn mạnh'
Hòa Minzy: "Nghệ sỹ có thể dùng chính âm nhạc của mình quảng bá văn hoá dân tộc"
Muôn kiểu hoạt động tri ân ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Bộ - Ngành

Địa Phương

Sản phẩm