Sửa đổi Luật Điện lực là rất cần thiết, cấp bách nhằm kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách về phát triển bền vững lĩnh vực điện lực; bảo đảm an ninh năng lượng giai đoạn sắp tới.
Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật Điện lực (sửa đổi) theo quy trình 1 kỳ họp
Luật Điện lực được ban hành năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2012, 2018, 2022 và năm 2023. Tuy đã có 4 lần sửa đổi, bổ sung và mỗi lần đã giải quyết được một số khó khăn, vướng mắc, song hiện nay nhiều quy định của Luật Điện lực hiện hành đã bộc lộ những bất cập, vướng mắc, không giải quyết được các vấn đề mới, quan trọng phát sinh trong thực tiễn.
Nghị quyết số 937 ngày 13/12/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ ra những bất cập, vướng mắc về thể chế trong lĩnh vực điện lực và đề nghị cần có các quy định, cơ chế tổng thể để giải quyết những bất cập, vướng mắc nêu trên, nhất là trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển đổi số, chuyển dịch năng lượng theo xu hướng xanh đang diễn ra mạnh mẽ và là xu thế chủ đạo, tác động rất lớn đến sự phát triển của ngành điện lực nước ta.
Mặt khác, thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn liên quan đến lĩnh vực năng lượng nói chung và điện lực nói riêng; nhiều Luật mới có liên quan cũng đã được Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
“Vì vậy, việc sửa đổi Luật Điện lực là rất cần thiết, cấp bách nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng; đồng thời, khắc phục những vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần thúc đẩy ngành điện lực phát triển bền vững, hiệu quả, đạt mục tiêu tăng gấp đôi công suất đặt toàn hệ thống vào năm 2030 và thay đổi căn bản cơ cấu các nguồn điện để đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân”, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương) Trần Việt Hòa cho biết.
Ông Hòa cũng cho biết Chính phủ kiến nghị Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật này theo quy trình 1 kỳ họp (cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XV) nhằm đảm bảo an ninh năng lượng trong giai đoạn sắp tới và khắc phục khó khăn, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật như thiếu quy định cụ thể để đầu tư các dự án điện khẩn cấp; thiếu quy định đầy đủ về cơ chế thúc đẩy đầu tư, xây dựng, khai thác các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo; khuyến khích chuyển đổi việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng các nguồn nhiên liệu phát thải thấp trong sản xuất điện; chưa có quy định về cơ chế đặc thù để phát triển điện gió ngoài khơi phù hợp với điều kiện của Việt Nam từng thời kỳ để thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài; chưa có chính sách đối với điện năng lượng tái tạo quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cơ quan hành chính sự nghiệp, công trình công cộng bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều kiện hệ thống điện.
Kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách về phát triển bền vững lĩnh vực điện lực
Theo Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực Trần Việt Hòa, xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển bền vững lĩnh vực điện lực.
Bên cạnh đó, sửa đổi toàn diện, đồng bộ các quy định của Luật Điện lực theo hướng vừa bảo đảm kế thừa các quy định “đã chín, đã rõ, được đa số đồng tình và đã được kiểm chứng qua thực tiễn”; bãi bỏ các quy định không còn phù hợp, gây vướng mắc, cản trở; bổ sung, phát triển các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng phù hợp với tình hình mới gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Dự thảo Luật này không có nội dung trái Hiến pháp, không có chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; không lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ và bảo đảm tương thích với các điều ước/cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Việc soạn thảo dự án Luật đã đảm bảo tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
Bộ Công Thương đã thực hiện tổng kết, đánh giá quy định của Luật Điện lực hiện hành, rà soát các luật có liên quan, xây dựng báo cáo rà soát văn bản quy phạm pháp luật và thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập tháng 3/2024 để tiến hành soạn thảo dự án luật.
Dự thảo Luật đã được gửi lấy ý kiến theo quy định từ tháng 3 đến tháng 5/2024; được Bộ Tư pháp thẩm định và được Chính phủ thông qua để trình Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Công Thương đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký ban hành Tờ trình số 380/TTr-CP ngày 07/8/2024 trình Quốc hội về dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và đã được Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (UBKHCNMT) và các cơ quan của Quốc hội đã thực hiện thẩm tra sơ bộ đối với Dự án Luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đã cho ý kiến dự án Luật.
Bộ Công Thương đã tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội và hiệu chỉnh hồ sơ dự án Luật. Ngày 25/9/2024, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký ban hành Tờ trình số 520/TTr-CP về dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và Ủy ban KH, CN&MT đã tổ chức Phiên họp thẩm tra dự án Luật.
Hiện nay, Bộ Công Thương đang nghiên cứu, tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm tra để hoàn thiện Dự thảo Luật, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV.
Luật Điện lực (sửa đổi) gồm 6 chính sách lớn
Trên cơ sở nhận diện các cơ sở chính trị và tổng kết các tồn tại, vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật Điện lực thời gian vừa qua, Chính phủ đã trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) với 6 chính sách lớn bao gồm:
(1) Quy hoạch và đầu tư phát triển điện lực nhằm bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước;
1(2) Phát triển điện năng lượng tái tạo và năng lượng mới;
(3) Hoàn thiện các quy định về điều kiện hoạt động điện lực và việc cấp, thu hồi Giấy phép hoạt động điện lực;
(4) Quản lý hoạt động mua bán điện theo hướng thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh minh bạch, công bằng, hiệu quả và giá điện theo cơ chế thị trường;
(5) Quản lý, vận hành hệ thống điện, chú trọng khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, tăng cường thực hiện giải pháp quản lý nhu cầu điện và điều chỉnh phụ tải điện;
(6) An toàn sử dụng điện sau công tơ và bảo đảm an toàn đập, hồ chứa thủy điện trong giai đoạn xây dựng và vận hành công trình thủy điện.
Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) bao gồm 9 chương với 130 điều, đã bám sát vào 06 chính sách nêu trên và không bổ sung chính sách mới.
Dự thảo Luật kế thừa và có sửa đổi chủ yếu 62 điều về quy định chung, cấp giấy phép hoạt động điện lực, thị trường điện, mua bán điện, giá điện, quyền và nghĩa vụ của các đơn vị điện lực và khách hàng sử dụng điện, bảo vệ công trình điện lực và an toàn điện, bỏ 4 điều (tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; hồ sơ đề nghị cấp, sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động điện lực; quyền và nghĩa vụ của đơn vị tư vấn chuyên ngành điện lực; thanh tra điện lực), gộp 4 điều vào các điều khác (về nội dung chính sách phát triển, đầu tư, tiết kiệm điện và giá điện).
Đồng thời, bổ sung 68 điều về quy hoạch phát triển điện lực, chính sách đấu thầu chủ đầu tư các dự án nguồn điện, chính sách xử lý các nguồn điện khẩn cấp, chính sách phát triển và vận hành các dự án nhà máy nhiệt điện sử dụng khí, dự án nguồn điện đầu tư theo phương thức đối tác công tư áp dụng loại hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao, các chính sách về năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió ngoài khơi), năng lượng mới (như hydrogen), cơ chế mua bán điện trực tiếp, triển khai đầy đủ các cấp độ của thị trường điện cạnh tranh, tiến tới xóa bỏ bù chéo giá điện giữa các thành phần kinh tế, giá mua bán điện theo thời gian trong ngày, giá điện nhiều thành phần v.v…
Việc tăng các Điều, Khoản trong dự thảo Luật chủ yếu và thực chất là các quy định mới để mở đường cho việc phát triển mạnh mẽ tiềm năng năng lượng tái tạo của đất nước; phát triển thị trường điện cạnh tranh theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; bổ sung quy định việc đầu tư xây dựng công trình điện khẩn cấp nhằm bảo đảm an ninh cung cấp điện và chế tài xử lý nghiêm các dự án điện chậm tiến độ.
Trong quá trình xây dựng dự án luật, Bộ Công Thương đã triển khai xây dựng nội dung Dự thảo đảm bảo về sự tương thích với các điều ước/cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên và nguyên tắc bảo đảm bình đẳng nam, nữ và không phân biệt đối xử về giới, cụ thể hóa và đảm bảo quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bình đẳng giới.
Dự thảo Luật này không có nội dung trái Hiến pháp, các nội dung đề xuất công khai, minh bạch, không có chính sách trái chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.
Dự thảo Luật được xây dựng theo hướng phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về điện lực (trung ương và địa phương) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Nội dung chính của Dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi)
– Chương I. Quy định chung bao gồm 8 điều với nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu về:
+ Về Phạm vi điều chỉnh: quy định về quy hoạch phát triển điện lực và đầu tư xây dựng dự án điện lực; phát triển điện năng lượng tái tạo và điện năng lượng mới; giấy phép hoạt động điện lực; thị trường điện cạnh tranh, giá điện, hoạt động mua bán điện; trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động điện lực và sử dụng điện; vận hành, điều độ hệ thống điện quốc gia, điều hành giao dịch thị trường điện lực; bảo vệ công trình điện lực và an toàn trong lĩnh vực điện; quản lý nhà nước về điện lực.
+ Về Đối tượng áp dụng: cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động điện lực, sử dụng điện hoặc có các hoạt động khác liên quan đến hoạt động điện lực tại Việt Nam.
+ Bổ sung 01 điều quy định về áp dụng pháp luật giữa Luật Điện lực và Luật khác có liên quan phù hợp với tính chất đặc thù của Luật Điện lực.
+ Bổ sung một số giải thích từ ngữ liên quan đến hoạt động điện lực như các loại giá điện, các nhà máy điện…
+ Về Chính sách của Nhà nước về phát triển điện lực:
(i) Bổ sung quy định hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, chuyển dịch năng lượng và các cam kết của Việt Nam giảm phát thải ròng bằng 0 trong thời kỳ mới.
(ii) Thể chế hóa đầy đủ các chính sách liên quan đến giá điện, áp dụng cơ chế giá điện phù hợp đối với các nhóm khách hàng sử dụng điện có mức tiêu thụ điện cao và phát thải cao, cơ sở lưu trú du lịch, các khách hàng sản xuất sản phẩm công nghiệp; trạm sạc điện phục vụ phương tiện giao thông xanh phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội từng thời kỳ.
(iii) Chính sách phát triển điện phục vụ vùng nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
(iv) Nguyên tắc chung trong phát triển điện hạt nhân nhằm góp phần đảm bảo cung ứng điện, an ninh năng lượng.
+ Sửa đổi, bổ sung các hành vi bị cấm trong hoạt động điện lực và sử dụng điện để phù hợp với tình hình mới.
– Chương II. Quy hoạch phát triển điện lực và đầu tư dự án điện lực bao gồm 4 mục với 22 điều như sau:
+ Mục 1. Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh và kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 9 điều;
+ Mục 2. Đầu tư xây dựng dự án, công trình điện lực, gồm 8 điều;
+ Mục 3. Lựa chọn nhà đầu tư dự án điện lực, gồm 3 điều;
+ Mục 4. Dự án nhà máy điện đầu tư theo phương thức PPP áp dụng loại hợp đồng BOT, gồm 2 điều.
Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu về yêu cầu đặc thù của Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia và Phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong Quy hoạch tỉnh nhằm làm rõ đối tượng quản lý quy hoạch theo phân cấp (quốc gia, tỉnh); bổ sung cơ chế đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư nguồn điện, theo dõi tiến độ và cơ chế xử lý các dự án nguồn điện chậm tiến độ nhằm quản lý tiến độ các dự án điện; quy định việc đầu tư, xây dựng công trình điện khẩn cấp nhằm bảo đảm an ninh cung cấp điện; bổ sung quy định về hợp đồng dự án đối với dự án nguồn điện đầu tư theo phương thức PPP áp dụng loại hợp đồng BOT.
– Chương III. Phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới gồm 2 mục với 16 điều như sau:
+ Mục 1. Quy định về điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới, bao gồm 7 điều;
+ Mục 2. Quy định về phát triển điện gió ngoài khơi, bao gồm 9 điều.
Chương này được bổ sung mới nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển điện năng lượng tái tạo, năng lượng mới, đặc biệt là điện tự sản tự tiêu, điện gió ngoài khơi.
– Chương IV. Giấy phép hoạt động điện lực bao gồm 13 điều quy định cụ thể việc cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực trong phát điện, truyền tải điện, phân phối điện, bán buôn điện, bán lẻ điện theo phân cấp tại trung ương và địa phương, trong đó, bổ sung 06 điều về điều kiện cấp giấy phép hoạt động điện lực với các lĩnh vực và quyền, nghĩa vụ của đơn vị được cấp phép.
– Chương V. Hoạt động mua bán điện gồm 3 mục với 29 điều như sau
+ Mục 1. Thị trường điện cạnh tranh gồm 12 điều;
+ Mục 2. Hợp đồng mua bán điện và dịch vụ cung cấp điện gồm 14 điều;
+ Mục 3. Giá điện và giá các dịch vụ về điện gồm 3 điều.
Nội dung bổ sung chủ yếu về: (i) Hợp đồng kỳ hạn điện; (ii) Mua bán điện trực tiếp giữa khách hàng sử dụng điện lớn và đơn vị phát điện; (iii) Quyền và nghĩa vụ của đối tượng tham gia thị trường điện cạnh tranh; nội dung sửa đổi chủ yếu về giá điện và giá các dịch vụ về điện theo các cấp độ thị trường điện cạnh tranh phù hợp với các chủ trương, chỉ đạo về giá điện, cơ chế điều chỉnh giá điện trong thị trường điện cạnh tranh, nguyên tắc tiến tới xóa bỏ “bù chéo” trong giá điện.
– Chương VI. Vận hành, điều độ Hệ thống điện quốc gia bao gồm 13 điều. Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu về vận hành, điều độ hệ thống điện quốc gia, liên kết lưới điện với nước ngoài và quản lý nhu cầu điện.
– Chương VII. Bảo vệ công trình điện lực và an toàn trong lĩnh vực điện bao gồm 3 mục với 22 điều như sau:
+ Mục 1. Bảo vệ công trình điện lực bao gồm 8 điều;
+ Mục 2. An toàn điện bao gồm 08 điều;
+ Mục 3. An toàn công trình thủy điện bao gồm 6 điều.
Nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu về Bảo vệ an toàn công trình nguồn điện, Kiểm định an toàn kỹ thuật thiết bị, dụng cụ điện, Yêu cầu chung về an toàn điện và 01 mục mới (06 Điều) về an toàn theo đặc thù trong lĩnh vực thủy điện mà hiện nay Luật Thủy lợi, Luật Tài nguyên nước chưa quy định.
– Chương VIII. Trách nhiệm quản lý nhà nước về điện lực gồm 4 điều, quy định về trách nhiệm và nội dung quản lý nhà nước về điện lực theo nguyên tắc phân cấp rõ ràng, cụ thể hóa trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Công Thương, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về điện lực.
– Chương IX. Điều khoản thi hành gồm 03 điều, trong đó bổ sung 01 điều quy định chuyển tiếp nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, không có khoảng trống pháp lý khi Luật này có hiệu lực và Luật Điện lực hiện hành hết hiệu lực.
PV