Hơn một năm sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu tăng lãi suất, hệ quả suy thoái mà nhiều người lo sợ vẫn chưa tới.
Các nhà kinh tế được Wall Street Journal khảo sát vào tháng 4 đưa ra xác suất suy thoái ở Mỹ tại một thời điểm nào đó trong 12 tháng tới là trên 50%. Dự báo tương tự cũng đã được đưa ra từ tháng 10/2022 và cuộc suy thoái dường như không gần hơn.
Thay vào đó, doanh nghiệp ráo riết tuyển dụng, người tiêu dùng vẫn chi tiêu, thị trường chứng khoán hồi phục và thị trường nhà ở ổn định. Những bằng chứng gần đây nhất cho thấy những nỗ lực của Fed chưa làm suy yếu đáng kể nền kinh tế.
Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Mỹ – tổ chức nghiên cứu chuyên đưa ra các kết luận chính thức về suy thoái – đã phân tích một loạt dữ liệu kinh tế để giúp xác định xem nền kinh tế có đang trong thời kỳ suy thoái hay không. Kết quả, hầu hết chỉ số đó đều có vẻ ổn định.
Trong khi nhiều nhà kinh tế từng dự báo việc Fed tăng lãi suất sẽ làm hạ nhiệt giá cả và nền kinh tế theo thời gian, gây ra suy thoái vào cuối năm nay thì những dữ liệu mới nhất tiếp tục nóng hơn dự báo. “”Tôi không nghĩ có bất kỳ khả năng nào cho thấy chúng ta đang rơi vào suy thoái”, Justin Wolfers, giáo sư kinh tế và chính sách công tại Đại học Michigan, đánh giá.
Đến nay, người Mỹ đang vung tiền vào các hoạt động mà họ đã bỏ lỡ trong những năm bị phong tỏa như du lịch, hòa nhạc và ăn uống bên ngoài. Các doanh nghiệp tăng tuyển người để đáp ứng nhu cầu bị dồn nén. Các chính sách nhằm đối phó với Covid-19 – lãi suất thấp và hàng nghìn tỷ USD hỗ trợ tài chính – giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp có rất nhiều tiền và khoản nợ rẻ, thúc đẩy chi tiêu.
Cụ thể, mức tăng việc làm vẫn mạnh mẽ, bơm thêm tiền vào ví của người Mỹ. Bộ Lao động nước này cuối tuần trước cho biết có thêm 339.000 người có việc làm trong tháng 5, mức “đáng ngạc nhiên” so với hai tháng liền trước và dự báo.
Trên toàn thị trường lao động, có 10,1 triệu vị trí đăng tuyển tháng 4 (tháng 3 là 9,7 triệu), vượt xa con số 5,7 triệu người Mỹ thất nghiệp trong tháng đó. Độ vênh cung – cầu lao động tiếp tục đẩy tiền lương tăng. Thu nhập trung bình mỗi giờ đã tăng 4,3% trong tháng 5 so với một năm trước đó.
Courtney Wakefield-Smith là một trong số những người gần đây đã được hưởng lợi từ thị trường lao động mạnh mẽ. Người phụ nữ 33 tuổi cho biết năm ngoái cô đã được thăng chức tại một công ty cấp nước ở New Jersey. Trong vai trò mới, cô kiếm được hơn 25 USD một giờ, cao hơn nhiều so với những công việc bán thời gian trước đó trong đại dịch, được trả từ 11 đến 17 USD một giờ.
Lương cao hơn và các lợi ích bao gồm cả thời gian nghỉ thai sản giúp cô chăm sóc đứa con đầu lòng thuận lợi hơn. “Thành thật mà nói, trước đây tôi không nghĩ mình có thể đủ khả năng nuôi một đứa trẻ”, cô nói.
Thị trường việc làm dự báo tiếp tục khan hiếm, phần lớn là do hàng triệu cựu công nhân gần đến tuổi nghỉ hưu đã rời bỏ lực lượng lao động kể từ khi đại dịch bắt đầu. Tỷ lệ người Mỹ từ 16 tuổi trở lên đang làm việc hoặc tìm việc ổn định, đạt 62,6%.
Theo báo cáo tháng 5 từ Fed San Francisco, người Mỹ có khoảng 500 tỷ USD tiền tiết kiệm vượt mức, tức số tiền cao hơn dự kiến thông thường trong điều kiện không có Covid-19. Điều này cho phép họ chi tiêu trong các chuyến du lịch mùa hè, xem hòa nhạc. Các công ty nhờ đó cũng có thể tăng giá dễ dàng.
CEO Southwest Airlines Bob Jordan dự báo nhu cầu đi lại hàng không tiếp tục mạnh mẽ trong hai đến ba tháng tới. American Airlines nâng triển vọng doanh thu quý hiện tại. Cục Quản lý An ninh Giao thông vận tải Mỹ cho biết lượng người đi qua các sân bay trong cuối tuần thuộc tháng trước vượt cùng kỳ 2019.
Brett Keller, Giám đốc điều hành trang web du lịch Priceline thuộc Booking Holdings, nói rất ngạc nhiên về nhu cầu đi lại dù vé máy bay hay tiền khách sạn đắt hơn. Ví dụ mùa hè này, vé khứ hồi từ Bờ Đông đến Boise (Idaho) đã vượt 1.000 USD, tăng gần gấp đôi so với vài năm trước.
Hoạt động kinh tế và lạm phát không chậm lại nhiều như các quan chức Fed dự đoán. Kể từ tháng 3/2022, họ đã nâng lãi suất từ gần bằng 0 lên phạm vi từ 5% đến 5,25%, mức cao nhất 16 năm.
Chi phí đi vay cao hơn thường tác động trước hết đến lãi suất của thị trường tài chính và nền kinh tế, chẳng hạn như cổ phiếu và nhà ở. Chẳng hạn, S&P 500 đã giảm khoảng 25% từ cuối tháng 12/2021 đến tháng 10/2022, khi Fed tăng lãi suất mạnh. Nhưng kể từ đó, nó đã quay đầu tăng khoảng 20%, điều thường không xảy ra nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái.
Doanh số bán nhà giảm mạnh năm ngoái nhưng đã tăng kể từ tháng 1/2023. Tình trạng thiếu nhà để bán đã khiến giá tăng cao thời gian gần đây. Các công ty xây dựng dân dụng và công nghiệp đã tạo thêm 25.000 việc làm vào tháng 5, tăng từ mức trung bình hàng tháng là 17.000 trong 12 tháng trước đó. Họ đang tự tin hơn khi tình trạng thiếu nhà làm tăng nhu cầu xây nhà mới.
Những dấu hiệu phục hồi này cho thấy Fed có thể cần tăng lãi suất hơn nữa để đẩy lạm phát từ mức hiện tại khoảng 5% xuống mục tiêu 2%. Các quan chức Fed tuần trước đã báo hiệu khả năng giữ nguyên lãi suất trong cuộc họp tháng này. Nhưng với báo cáo việc làm mạnh mẽ, chiến dịch tăng lãi suất có thể vẫn chưa kết thúc.
“Quyết định giữ nguyên lãi suất chính sách của chúng tôi tại cuộc họp sắp tới không nên được hiểu là chúng ta đã đạt đến mức lãi suất cao nhất cho chu kỳ này”, Thống đốc Fed Philip Jefferson, cho biết tuần trước. Theo ông, việc tạm dừng tăng lãi tháng này là cơ hội để xem xét các dữ liệu trước khi đưa ra quyết định củng cố chính sách bổ sung trong thời gian tới.
Vẫn có một số dấu hiệu lãi suất cao hơn đang có tác dụng. Các doanh nghiệp đã đầu tư chậm lại trong quý I, đặc biệt cắt giảm chi tiêu cho thiết bị. Thời gian làm việc trung bình một tuần đã giảm xuống 34,3 giờ vào tháng trước, thấp nhất kể từ tháng 4/2020, phản ánh rằng doanh nghiệp đang cắt giảm giờ thay vì sa thải.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 3,7% trong tháng 5, từ 3,4% của tháng 4. Lĩnh vực công nghệ thông tin cũng đã cắt giảm 9.000 việc làm trong tháng rồi. Nhiều nhà kinh tế và CEO vẫn tin rằng tác động của việc tăng lãi suất chỉ còn là vấn đề thời gian, do có độ trễ nhất định. Khi ấy, sức sống cùa nền kinh tế sẽ giảm đáng kể.
Phiên An (theo WSJ)