Từ thời vua Gia Long, ngoài các đội thuyền túc trực trên sông, vịnh, nhà Nguyễn đã xây dựng hệ thống phòng thủ cửa biển chống giặc ngoại xâm.
Sau khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân (Thừa Thiên Huế ngày nay) làm kinh đô. Chính quyền non trẻ thường xuyên bị phương Tây phái tàu thuyền tới dòm ngó.
Tuy nhiên, hệ thống phòng thủ bờ biển của nhà Nguyễn còn thô sơ. Bán đảo Sơn Trà chỉ có một đài đốt lửa trên đỉnh núi để quan sát mặt biển và đốt lửa truyền tín hiệu khi có tàu thuyền nước ngoài chuẩn bị vào vịnh. Cửa biển Đà Nẵng có một đồn binh phòng nhỏ, nằm ở rìa tả ngạn sông Hàn.
Nhiều tài liệu chính sử triều Nguyễn ghi lại, vua Gia Long nhận định nguy cơ bị xâm lược từ các nước phương Tây nên đã yêu cầu các tàu thuyền nước ngoài chỉ được vào giao thương tại vịnh Đà Nẵng, đồng thời xây hệ thống đồn lũy phòng thủ ven biển, xây dựng lực lượng thủy binh ở cửa biển.
Xác định cửa biển Thuận An, cửa ngõ ra Biển Đông của kinh đô Huế là nơi trọng yếu, năm 1813 vua Gia Long sai quan đại thần Nguyễn Đức Xuyên trông coi xây dựng đài Trấn Hải tại đây. Đài xây xong bị mưa bão làm sạt lở, nhà Nguyễn phải cho đóng cừ, xây kè đá và trồng hàng nghìn cây dừa trên cồn cát xung quanh.
Cùng thời điểm trên, vua cho xây đài Điện Hải sát biển ở tả ngạn cửa sông Hàn. Đài đắp bằng đất, phía ngoài có hào nước bao quanh. Trên hào từ bờ sông vào có cầu gỗ, thiết kế theo dạng cầu rút ván. Phía trong đài là doanh trại. Phía nam đài có cột cờ. Tàu thuyền từ biển vào cửa sông Hàn (rộng khoảng 200 m) đều có thể nhìn thấy pháo đài và cột cờ.
Do đài Điện Hải đắp bằng đất, thường xuyên bị sóng biển xâm thực, triều đình sai Đô thống chế Tống Phước Lương huy động 500 người dân Quảng Nam sửa chữa, đồng thời cho xây dựng bảo An Hải bên bờ hữu ngạn cửa sông Hàn.
Đài Trấn Hải, đài Điện Hải và bảo An Hải là ba công trình quân sự đầu tiên triều Nguyễn cho xây dựng nhằm phòng giữ cửa biển Huế và Đà Nẵng. Ngay khi các công trình hoàn thành, vua Gia Long đi đường bộ đến cửa Thuận An (Huế), rồi đi đường thủy vào Đà Nẵng kiểm tra.
“Việc đích thân tổ chức một chuyến tuần du dài ngày từ Huế về đài Trấn Hải rồi đài Điện Hải cho thấy sự quan tâm lớn của vua Gia Long về phòng giữ những vị trí bờ biển trọng yếu, phản ánh tầm quan trọng của đài Điện Hải với việc bảo vệ bờ biển Đà Nẵng và cả vấn đề quốc phòng, an ninh của đất nước vào đầu thời nhà Nguyễn”, ông Huỳnh Đình Quốc Thiện, Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng, nói.
Xây dựng Hải Vân quan, củng cố hệ thống phòng ngự ven biển
Với tầm nhìn chiến lược về biển đảo, vua Minh Mạng quan tâm hơn việc bố phòng cửa biển ở Huế và Đà Nẵng. Năm 1822, vua cho dời đài Điện Hải vào bên trong sông Hàn. Ngoài việc chọn gò đất cao rộng, đo đạc kỹ lưỡng, nhà Nguyễn đã dùng gạch, các loại đá thềm, đá lát xây đài, thay vì dùng đất đắp như xưa. Bên trong có kỳ đài, nhà quân trú, kho thuốc đạn. Điện Hải trở thành cứ điểm quân sự quan trọng hàng đầu trong hệ thống phòng thủ cửa biển Đà Nẵng.
Năm 1826, vua Minh Mạng cho xây Hải Vân quan trên đỉnh đèo Hải Vân, nằm giữa kinh đô Huế và Đà Nẵng. Vua giao quân lính dùng kính viễn vọng quan sát tàu thuyền ra vào cửa biển Đà Nẵng, nếu thấy tàu lạ thì bắn pháo hiệu để lực lượng tuần du ở cửa sông Hàn, bán đảo Sơn Trà kiểm tra. Trên bán đảo Sơn Trà, vua cho xây dựng nhiều công trình, tạo thành hệ thống phòng thủ liên hoàn, kết nối chặt chẽ với Điện Hải và An Hải.
Tháng 5/1830, nhà vua phái 2 quản vệ, 16 suất đội, 800 biền binh sửa đài Trấn Hải. Sách Đại Nam Thực lục ghi chép, vua Minh Mạng dụ Bộ Công rằng sửa đài bằng vật liệu chắc chắn, bền vững, “nếu mờ ám lương tâm làm qua loa xong việc, hoặc bớt xén giả dối để đến nỗi trong hạn ba năm, thành quách gạch đá sụp đổ gãy nát hay là phình ra khuyết vào thì tất phải giao Bộ Hình xử rất nghiêm”.
Đánh giá đài Trấn Hải có vị trí quan trọng, trấn ngữ ở bờ biển khác hẳn với các pháo đài khác, năm 1834 vua Minh Mạng đặc cách cho gọi là thành. Thành được thiết kế hình tròn, chu vi 284,8 m, cao 6 m, trên thành có 99 ụ súng đại bác. Có hai cửa vòm, trong đó cửa chính nhìn về hướng nam và cửa phụ ở mặt sau thành như lối thoát hiểm. Xung quanh thành có hào rộng 4 m, sâu 2,4 m.
Cùng năm 1834, vua Minh Mạng quyết định nâng cấp đài Điện Hải lên thành. Thành có ba cửa đông, nam và tây, chu vi 589 m, thành trong cao 5,08 m, thành ngoài 2,96 m. Hào rộng 19,08 m, sâu 2,96 m. Diện tích toàn bộ thành Điện Hải tính theo vòng thành ngoài là 18.340 m2. Tại bốn góc thành có bốn pháo đài lồi, mỗi pháo đài bố trí 7 khẩu súng thần công. Việc bố trí hỏa lực tại các góc lồi này sẽ thay đổi tùy theo thực tế hướng tấn công của đối phương.
Năm 1840, triều đình cho xây pháo đài Phòng Hải trên bán đảo Sơn Trà, có nhiệm vụ phòng thủ và kiểm soát tàu thuyền ra vào mạn phía đông cửa vịnh Đà Nẵng. Các điểm phòng thủ tại cửa biển Đà Nẵng tiêu biểu gồm tấn Đà Nẵng, tấn Cu Đê, thành Điện Hải, thành An Hải (chế ngự lối vào cửa sông Hàn), đài phong hỏa, pháo đài Định Hải, pháo đào Phòng Hải, 7 bảo Trấn Dương và tuyến phòng thủ Hải Vân.
“Nhìn tổng thể, ở đây có cả hệ thống phòng thủ liên hoàn, có tính chất đối xứng, đối ứng, liên kết giữa các điểm. Mỗi vị trí đều có những chức năng riêng và cũng có tính tương trợ, thông tin khi cần”, ông Lê Tiến Công, Giám đốc Nhà trưng bày Hoàng Sa, đánh giá.
Sau hai lần tàu hải quân Pháp gây hấn ở Đà Nẵng (1847 và 1856), triều đình nhà Nguyễn đã đặt 20 cỗ xe súng đại bác ở đồn Trấn Dương, nằm phía trên pháo đài Phòng Hải; đắp lũy cát rồi trồng cây gai che lấp từ thành An Hải đến chân núi Sơn Trà và từ thành Điện Hải đến cảng Thanh Khê.
4.000 cân thuốc súng cũng được chuyển từ kinh thành Huế vào giao cho các đồn phòng thủ. Còn thành Trấn Hải được vua Tự Đức xây dựng thêm hành cung và đặt thêm các ụ súng. Hệ thống đồn lũy cũng được thiết lập từ cửa Thuận An, phá Tam Giang đến sông Hương.
Tiến sĩ Trần Đình Hằng, Phân viện trưởng Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế, cho rằng ngay từ ban đầu, các vua triều Nguyễn đã nhìn nhận được mối đe dọa từ phương Tây nên đã xây dựng hệ thống phòng thủ ven biển. Ở kinh đô Huế, triều Nguyễn xây dựng được lực lượng thủy binh mang tên Kinh kỳ Thủy sư. Tại cửa biển Thuận An, triều đình xây đài Trấn Hải kiên cố và thiết lập hệ thống đồn lũy dày đặc trên sông Hương, cửa ngõ chính tàu thuyền vào kinh thành Huế.
Triều Nguyễn đã cố gắng xây dựng hệ thống phòng thủ, nhưng không thể đương đầu với liên quân Pháp – Tây Ban Nha. Ngày 1/9/1858, liên quân nổ súng tấn công Đà Nẵng, sau 3 đợt công kích đã phá thủng hệ thống phòng thủ ven biển, chiếm được các đồn và thành Điện Hải.
25 năm sau, vào năm 1883, quân Pháp đánh chiếm cửa biển Thuận An, thành Trấn Hải thất thủ, các quan trấn giữ thành là Lê Sĩ và Lê Chuẩn tử trận, quan Lâm Hoành và Trần Thúc Nhẫn nhảy xuống sông tự vẫn. Triều đình buộc phải ký hòa ước Quý Mùi (hòa ước Harmand, 1883), chấp nhận sự bảo hộ của Pháp.
Dấu tích rõ nét nhất còn lại đến ngày nay của hệ thống phòng thủ ven biển triều Nguyễn là thành Điện Hải và Trấn Hải, các thành, đồn khác không còn. Sau năm 1975, thành Trấn Hải trở thành đồn biên phòng cửa khẩu cảng Thuận An, đến năm 1997 được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Thành Điện Hải được Thủ tướng công nhận di tích quốc gia đặc biệt năm 2017.
Nguyễn Đông – Võ Thạnh
Bài tiếp: Cuộc chiến bảo vệ Đà Nẵng 165 năm trước