Bộ Công thương được yêu cầu chuyển điện nền từ điện than sang điện khí, ưu tiên sản xuất trong nước để tăng trưởng điện đạt từ 12 đến 15%/năm. Tuy nhiên để thực hiện điều này, có nhiều vấn đề cần sớm giải quyết.
Kho cảng LNG Thị Vải của PV Gas |
Điện nền: Thay than bằng khí
Trong kết luận của cuộc họp về việc tháo gỡ khó khăn cho các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi mới đây, Thường trực Chính phủ đề nghị Bộ Công thương khẩn trương rà soát tổng thể các nguồn điện trong Kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII theo hướng chuyển điện nền từ điện than sang điện khí, ưu tiên sản xuất trong nước để tăng trưởng điện đạt 12-15%/năm, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đủ điện phục vụ sản xuất, kinh doanh, đời sống nhân dân.
Với quá trình chuyển dịch năng lượng trong lĩnh vực sản xuất điện, phù hợp với cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam, mục tiêu điện khí thay thế dần điện than được coi là một trong những bước khởi đầu.
Theo đó, đã có 23 dự án điện khí, với tổng công suất 30.424 MW đưa vào vận hành đến năm 2030 được đặt ra trong Quy hoạch Điện VIII. Trong đó, 10 dự án điện khí sử dụng khí khai thác trong nước với công suất 7.900 MW và 13 dự án điện khí sử dụng khí LNG nhập khẩu với công suất 22.542 MW.
Tuy nhiên, đó là kế hoạch, còn hiện tại, điện than vẫn đóng góp lớn trong cấp điện cho nền kinh tế. Cụ thể, tổng công suất đặt của các nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia khoảng 84.931 MW, Trong đó, nhiệt điện than có công suất đặt 27.531 MW, chiếm tỷ trọng 32,4% và nhiệt điện chạy khí cùng tuabin khí hỗn hợp khoảng 7.422 MW, chiếm 8,8%.
Nếu xét về sản lượng điện, thì nhiệt điện than dù chỉ có công suất đặt 32,4%, nhưng đang đóng góp lớn trong sản xuất điện. Cụ thể, năm 2022, sản lượng điện than đóng góp cho hệ thống 95,627 tỷ kWh, thủy điện đóng góp 97,814 tỷ kWh và nhiệt điện khí đóng góp 28,772 tỷ kWh, tương đương lần lượt là 36%, 37%, 11%.
Năm 2023, nhiệt điện than đóng góp 120.351 tỷ kWh, thủy điện 81,614 tỷ kWh, nhiệt điện khí 26,784 tỷ kWh, tương đương lần lượt là 44%, 30%, 10%. Trong 8 tháng đầu năm, tình hình vẫn chưa có gì thay đổi khi nhiệt điện than vẫn dẫn đầu về sản lượng điện.
Nhiều thách thức cần tháo gỡ
Hiện các dự án điện khí trong nước liên quan đến chuỗi Dự án khí điện lô B và chuỗi Dự án khí điện Cá Voi Xanh. Theo Bộ Công thương, trong 4 nhà máy điện khí thuộc chuỗi dự án khí điện lô B, có Nhà máy điện Ô Môn I đã vận hành từ năm 2015 và sẽ chuyển đổi sang đốt khí khi có khí lô B vào bờ.
Hai dự án do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) triển khai là Dự án Ô Môn IV đang thực hiện các thủ tục để lựa chọn nhà thầu EPC và đàm phán giá điện; Dự án Ô Môn III đang được trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án vay ODA của Nhật Bản. Dự án Ô Môn II do Mitsui và Vietracimex đầu tư đang đàm phán các hợp đồng thương mại về mua bán khí và mua bán điện.
Tuy nhiên, đánh giá của các chuyên gia độc lập của nangluongvietnam.vn cho hay, ngày đón dòng khí về bờ (First gas) đã trượt từ cuối năm 2026 sang cuối năm 2027. Trong khi đó, các nhà máy điện có tiến độ tiếp nhận khí mới cập nhật là vào quý IV/2027 với Dự án Ô Môn IV, quý I/2028 với Dự án Ô Môn II và quý IV/2029 với Dự án Ô Môn III. Như vậy, cần sớm có giải pháp để khớp tiến độ các dự án điện và đưa khí vào bờ để không bị lãng phí hay phạt.
Tại chuỗi Dự án khí điện Cá Voi Xanh, có 5 dự án điện gồm Miền Trung I & II do Petrovietnam đầu tư; Dung Quất I&II do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư và Dung Quất III do Tập đoàn Sembcorp (Singapore) đầu tư.
Khi làm việc với Bộ Công thương vào tháng 8/2024, UBND tỉnh Quảng Ngãi cho hay, Dự án Dung Quất I và III đã lập hồ sơ Báo cáo nghiên cứu khả thi; Dự án Dung Quất II đã được Bộ Công thương phê duyệt Báo cáo khả thi tại Quyết định số 4345/QĐ-BCT ngày 20/11/2018. Tuy nhiên, cả 3 dự án điện khí này đang gặp khó khăn do nhà phát triển mỏ Cá Voi Xanh là Exxon Mobil đang tái cơ cấu hoạt động, không chú trọng vào khai thác, mà tập trung vào ngành năng lượng mới.
Thực trạng trên khiến Bộ trưởng Bộ Công thương đề nghị tỉnh Quảng Ngãi cùng Bộ Công thương kiến nghị Chính phủ cho phép triển khai dự án nhà máy nhiệt điện khí, nhưng thay vì sử dụng khí hóa lỏng từ mỏ Cá Voi Xanh thì chuyển sang sử dụng khí LNG nhập khẩu.
“Phải phát triển điện khí để đảm bảo năng lượng cho quốc gia. Còn khi nào khai thác được mỏ Cá Voi Xanh thì sẽ chuyển sang sử dụng lại. Nếu cần thiết, sẽ ký hợp đồng cung ứng nguồn nhiên liệu có thời hạn với một số đối tác. Như vậy mới có thể thực hiện được mục tiêu của địa phương và cả nước”, ông Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Công thương nhấn mạnh.
Ở 13 dự án điện khí LNG nhập khẩu, hiện chỉ có Dự án Nhơn Trạch 3&4 đang triển khai với mục tiêu tháng 5/2025 vận hành thương mại. Các dự án điện khí LNG nhập khẩu khác đều gặp khó khăn trong giải quyết các vấn đề vay vốn, đàm phán giá bán điện, đòi hỏi bảo lãnh của Chính phủ về chuyển đổi ngoại tệ, thanh toán, rủi ro đường dây truyền tải…
Với thực trạng trên, báo cáo của Bộ Công thương hồi tháng 8/2024 đã kiến nghị, để triển khai các dự án điện khí theo Quy hoạch Điện VIII, cần xây dựng nghị quyết của Quốc hội để trình cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành. Trong nghị quyết này, sẽ quy định cơ chế phát triển dự án điện khí, làm cơ sở để chủ đầu tư, EVN ký kết hợp đồng mua bán điện, thu xếp vốn thực hiện và đưa vào vận hành, đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Với hiện trạng như trên, các dự án điện khí nói chung sẽ còn cần nhiều thời gian mới đi vào giai đoạn vận hành phát điện.
Dự án điện khí LNG Bạc Liêu được cấp chủ trương đầu tư từ tháng 1/2020, được nhiều nhà đầu tư khác rất quan tâm bởi đã có nhiều kiến nghị tới các cơ quan hữu trách để khơi thông triển khai Dự án.
Tháng 2/2020, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xem xét kiến nghị của tỉnh Bạc Liêu, xử lý theo pháp luật, không để xảy ra trình trạng chậm trễ trong xử lý các kiến nghị của địa phương và nhà đầu tư.
Tới tháng 10/2021, Dự án điện khí LNG Bạc Liêu và tỉnh Bạc Liêu đã có nhiều kiến nghị tới Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ nhằm tháo gỡ các bế tắc để triển khai dự án.
Tuy nhiên sau đó, các cơ quan quản lý nhà nước đã chỉ ra nhiều đề nghị chưa có tiền lệ ở Dự án điện LNG Bạc Liêu mà chủ đầu tư đề xuất.
Tới tháng 4/2023, Phó thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành báo cáo về những vướng mắc của chủ đầu tư tại dự án này. Tới đầu năm 2024, chủ đầu tư lại đề nghị cơ quan hữu trách gỡ các vướng mắc.
Đáng nói là, các vướng mắc không có sự thay đổi nhiều trong hơn 4 năm qua và Dự án vẫn chưa biết bao giờ có thể động thổ xây dựng nhà máy trên thực địa.
Nguồn: https://baodautu.vn/dien-khi-voi-muc-tieu-tro-thanh-nguon-dien-nen-d225352.html