Tổng thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Tùng - Ảnh: GIA HÂN
Sáng 12-2, Quốc hội đã nghe Tổng thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Tùng trình tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.
Đề xuất không quy định về phó tổng thư ký, ban thư ký
Đáng chú ý, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung quy định về tổng thư ký Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo đó, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, xác định Văn phòng Quốc hội là cơ quan hành chính, tham mưu tổng hợp, phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội.
Quyết định biên chế cán bộ, công chức, viên chức và quy định chế độ, chính sách áp dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khác thuộc Văn phòng Quốc hội phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động của Quốc hội.
Về tổng thư ký Quốc hội, theo kết luận của Bộ Chính trị thì tổng thư ký Quốc hội đồng thời là chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, do đó đề nghị tiếp tục sử dụng chức danh "Tổng thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội".
Cùng với đó, xác định rõ người đứng đầu Văn phòng Quốc hội chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hoạt động của Văn phòng Quốc hội.
Tổng thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội là người phát ngôn của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Cùng với đó, dự luật không quy định về phó tổng thư ký, ban thư ký, về cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong luật.
Quang cảnh kỳ họp bất thường - Ảnh: GIA HÂN
Đề xuất bổ sung trường hợp tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội
Bên cạnh đó, tờ trình nêu rõ việc sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Trong đó, sửa đổi, bổ sung quy định về việc Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành.
Bổ sung quy định về trường hợp tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội trên cơ sở cụ thể hóa quy định 148/2024 của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Đồng thời, bảo đảm phù hợp với quy định 41/2021 của Bộ Chính trị về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ.
Thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho hay có ý kiến đề nghị tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các quy định của Đảng tại quy định 41 và quy định số 148 để quy định cụ thể các trường hợp tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội, và việc xử lý hệ quả của việc tạm đình chỉ tại dự luật.
Cũng như trong nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, tránh áp dụng tùy nghi, ảnh hưởng đến uy tín, quyền lợi của đại biểu Quốc hội và cán bộ công tác tại các cơ quan của Quốc hội.
Cụ thể, dự luật sửa đổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội trong các trường hợp sau:
Đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can.
Trong quá trình xem xét, xử lý hành vi vi phạm của đại biểu Quốc hội, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội được trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu và khôi phục các lợi ích hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền có quyết đinh, kết luận về việc không có vi phạm, không xử lý kỷ luật, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với đại biểu đó hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên đại biểu đó không có tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự.
Trường hợp đại biểu Quốc hội bị xử lý kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc cho trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu hay đề nghị Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội bị kết tội bằng bản án, quyết định của tòa án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật.
Tuoitre.vn
Bình luận (0)