“Bắt bệnh” cho hòn Trống Mái
Tại hội thảo về bảo tồn hòn Trống Mái trên vịnh Hạ Long, TS Quách Đức Tín, Phó viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, cho biết hội thảo nhằm tiếp thu ý kiến đóng góp, trao đổi của các nhà khoa học, quản lý liên quan đến bảo tồn hòn Trống Mái trên vịnh Hạ Long.
Hội thảo có 6 chuyên đề nghiên cứu chính được các chuyên gia của Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, Viện Khoa học thủy lợi, Viện Địa kỹ thuật Na Uy trình bày.
Th.S Hồ Tiến Chung, Phó trưởng phòng Kiến tạo và địa mạo, Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, cho biết tại vịnh Hạ Long các quá trình địa chất – địa động lực vẫn đang diễn ra, gây nhiều biến động cho các đảo và hang động. Hòn Trống Mái gồm 2 đảo đá nhỏ có hình thù như một đôi gà trống mái cao khoảng 13,9 m, chân đảo thót lại tạo tư thế chênh vênh.
Trải qua quá trình hoạt động địa chất, kiến tạo và sự tác động của nước biển, hòn Trống Mái có cấu tạo đơn nghiêng với nhiều hệ thống khe nứt tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sạt, lở hoặc bị biến dạng làm mất đi hình ảnh biểu tượng của di sản thế giới vịnh Hạ Long. Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu bảo tồn.
TS Trần Điệp Anh, nghiên cứu viên Phòng Kiến tạo và địa mạo, Viện Khoa học Địa chất và khoáng sản, cho biết kết quả điều tra, đo vẽ chi tiết khu vực hòn Trống Mái kết hợp với phân tích ảnh vệ tinh, xây dựng mô hình 3D… đã xác định được trên khu vực hòn Trống Mái tồn tại 40 khối có nguy cơ trượt lở, đổ lở. Trong đó hòn Trống có 11 khối và hòn Mái tồn tại 29 khối.
Tổng cộng 13 khối có nguy cơ trượt phẳng (hòn Trống 6, hòn Mái 7); 4 khối có nguy cơ trượt nêm (hòn Trống 3, hòn Mái 1); 23 khối có nguy cơ đổ lở, lật đổ (hòn Trống 3, hòn Mái 21)…
TS Trần Điệp Anh đánh giá, các kết quả thu được khá chi tiết, là một sản phẩm quan trọng cho công tác thiết kế các giải pháp tiền khả thi để giảm thiểu nguy cơ trượt lở, đổ lở qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ổn định hòn Trống Mái.
Bảo tồn hòn Trống Mái bằng cách nào?
Từ các nghiên cứu, điều tra, đánh giá về hiện trạng hòn Trống Mái, Th.S Hồ Sỹ Mão, nghiên cứu viên Viện Khoa học thủy lợi, đã trình bày chi tiết về các giải pháp công trình với từng đối tượng tại hòn Trống Mái.
Theo đó, các giải pháp được đề xuất theo từng đối tượng cụ thể là các thành tạo địa chất trên mực nước, trong đới thủy triều và hoàn toàn nằm dưới mực nước biển.
Mỗi đối tượng được tác giả đề xuất từng biện pháp kỹ thuật cụ thể như dùng các neo bảo vệ các khối trượt, bơm trám xi măng các khe nứt, xây tường bê tông chịu lực hỗ trợ gia cố các vách hang và hệ thống đê bao vòng quanh chân cụm đảo giúp xử lý độ ổn định chân đế hòn Trống Mái.
Trước những phân tích, đánh giá các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hiện tượng sạt lở, đổ lở và xói lở hòn Trống Mái, tập thể tác giả đã nghiên cứu mối liên quan giữa số lượng, vận tốc, khoảng cách tàu thuyền và tác động của chúng tới sự ổn định của hòn Trống Mái, từ đó gợi ý một số giải pháp xã hội và giải pháp công trình nhằm giảm thiểu tác động đến sự ổn định của hòn Trống Mái.
Tại hội thảo, chuyên gia của Viện Địa kỹ thuật Na Uy là các TS: Rainder Kumar và TS LLoyd Warren đã phân tích các đặc tính cơ học đá liên quan tới sự ổn định của hòn Trống Mái, so sánh với các di sản thiên nhiên trên thế giới đã được tập thể chuyên gia Viện Địa kỹ thuật Na Uy bảo tồn, từ đó đưa ra nhận định và đề xuất các giải pháp ổn định hòn Trống Mái tại vịnh Hạ Long.
Một số nghiên cứu thực nghiệm bước đầu cũng được các chuyên gia Na Uy phối hợp với Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản thử nghiệm tại vịnh Hạ Long thời gian qua.
Các đề xuất của chuyên gia Na Uy có một số điểm không tương đồng với đề xuất của Viện Khoa học thủy lợi, chẳng hạn phương án bảo tồn mà không làm thay đổi cảnh quan và chỉ tác động nhỏ nhất để đảm bảo độ ổn định của hòn Trống Mái theo thời gian.