Vi rút Nipah tái bùng phát ở Ấn Độ, 6 ca nhiễm thì 2 ca tử vong
Bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Minh Tiến, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng Thành Phố (TP.HCM), cho biết vi rút Nipah là một loại vi rút gây bệnh truyền nhiễm lây truyền từ động vật sang người. Malaysia và Singapore là 2 quốc gia ghi nhận đợt bùng phát đầu tiên của vi rút Nipah vào những năm 1998-1999 trên người và heo. Sau đó đến Bangladesh, Tây Bengal (Ấn Độ) năm 2001, Philippines năm 2014, tại Kerala (Ấn Độ) năm 2018 và tái phát như hiện nay.
Trong tuần qua, đợt bùng phát vi rút Nipah tại bang Kerala miền nam Ấn Độ, có 6 ca nhiễm vi rút, trong đó có 2 ca tử vong, 1 ca thở máy là bệnh nhi nam 9 tuổi. Hơn 700 người bao gồm cả nhân viên y tế đã được xét nghiệm. Theo đó, chính quyền tiểu bang thuộc Ấn Độ đã thực hiện các bước khẩn cấp nhằm ngăn chặn sự lây truyền của vi rút Nipah như đóng cửa một số trường học, văn phòng và mạng lưới giao thông công cộng.
Tốc độ lây lan nhanh
Bác sĩ Tiến cho biết, theo lịch sử dịch tễ, bệnh gây ra các triệu chứng viêm não ở người nuôi heo tại làng Nipah ở Malaysia, do đó tên vi rút đặt theo làng Nipah ở Malaysia. Ban đầu, cơ quan y tế Malaysia nhầm với viêm não Nhật Bản, tuy nhiên ghi nhận dịch tễ trong những người mắc bệnh cho thấy nhiều người đã tiêm vắc xin viêm não Nhật Bản. Hơn nữa bệnh có một số biểu hiện không giống viêm não Nhật Bản, thường xuất hiện người lớn, chùm ca bệnh ở chung một nhà, chung trang trại, do đó các nhà chức trách nghi ngờ do vi rút khác khác lây từ heo.
Dựa vào kết quả phân lập từ nước tiểu, người ta tìm thấy kháng thể chống lại vi rút Nipal ở các loài dơi ở Bangladesh, vùng bờ đông Malaysia…
Sau đó kháng thể này cũng được tìm thấy trong máu của 23 loài dơi, sống ở Vân Nam và đảo Hải Nam (Trung Quốc), Campuchia, Thái Lan, Indonesia, Madagascar, và Ghana ở Tây Phi.
“Vi rút Nipah thuộc họ Paramyxoviridae, giống Henipavirus có là nhân RNA, do đó tốc độ lây nhanh so vi rút có nhân DNA”, bác sĩ Tiến chia sẻ.
Thời gian ủ bệnh từ 7- 40 ngày, tỷ lệ tử vong 40-70%
Vi rút Nipah có thể lây nhiễm qua 3 con đường, trực tiếp từ dơi sang người, hoặc qua trung gian từ thức ăn của dơi, từ dơi sang động vật khác qua người, từ người mắc bệnh qua người qua nước tiểu, nước bọt, dịch hầu họng, qua giọt bắn, trực tiếp hoặc gián tiếp qua quá trình tiếp xúc chăm sóc, vật dụng lây nhiễm…
Người nhiễm vi rút Nipah có biểu hiện triệu chứng chủ yếu ở hệ thần kinh và hô hấp. Một số bệnh nhân không có triệu chứng. Thời gian ủ bệnh từ 7-40 ngày nên dễ bỏ sót trong khâu giám sát.
“Triệu chứng khởi phát thường sốt đột ngột, nhức đầu, đau cơ, buồn nôn, nôn ói, dấu hiệu não như cổ cứng, sợ ánh sáng, ho khó thở, đau ngực, X-quang tổn thương phổi. Ngoài ra, người bị nhiễm có thể bị tổn thương tim, thay đổi chức năng cơ bóp cơ tim. Khoảng 60% diễn tiến nhanh, xấu dần, rơi vào hôn mê trong vòng 5-7 ngày, co giật toàn thân xảy ra ở 20% các bệnh nhân”, bác sĩ Tiến chia sẻ.
Các triệu chứng cho thấy dấu hiệu diễn tiến nặng như xuất hiện các cơn rung giật cơ như cơ chi trên, cơ cổ, cơ hoành, rối loạn tiểu não (mất điều hòa phối hợp động tác, loạng choạng, rung chi, mất phản xạ, tổn thương cuống não, gây đồng tử co nhỏ không phản ứng với ánh sáng, bất thường phản xạ mắt búp bê), nhịp tim nhanh, tăng huyết áp…
Một số trường hợp ban đầu không có biểu hiện triệu chứng hoặc nhẹ, sau đó biểu hiện thần kinh muộn, sốt nhức đầu co giật, chụp cộng hưởng từ (MRI) ghi tổn thương dạng mảng rải rác khắp não, người bệnh có tình trạng mệt mỏi kéo dài, rối loạn giấc ngủ.
Bệnh nhân nhiễm vi rút Nipah sẽ được lấy dịch mẫu tủy xét nghiệm PCR tìm tác nhân và xét nghiệm sinh hóa ghi nhận tế bào tăng (đa số lympho), đạm tăng…
Bác sĩ chuyên khoa 1 Võ Thị Huỳnh Nga, Trường khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện đa khoa quốc tế Nam Sài Gòn, cho biết vật chủ mang mầm bệnh chủ yếu là ở một loài dơi ăn quả, vi rút từ loài dơi này sẽ lây truyền sang một số động vật khác như chó, mèo, lợn, dê… Khi chúng ta tiếp xúc trực tiếp hoặc ăn uống những thực phẩm có chất dịch của động vật mang mầm bệnh, khả năng cao bản thân đã bị nhiễm vi rút Nipah. Ngoài ra, bệnh còn có thể lây từ người sang người.
Bệnh dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác với các triệu chứng không điển hình như đau họng, ho, sốt, khó thở, nhức đầu, nôn mửa. Khi ở giai đoạn nặng, người bệnh sẽ gặp các triệu chứng nghiêm trọng như rối loạn tri giác, co giật, hôn mê, suy hô hấp, viêm não và có thể dẫn đến tử vong trong vòng 24-48 giờ tiếp theo.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ tử vong do NiV là 40-75%. Tỷ lệ này có thể thay đổi tùy theo đợt bùng phát tùy thuộc vào khả năng giám sát dịch tễ học và quản lý lâm sàng của địa phương. Tỷ lệ tử vong ghi nhận tại Malaysia là 30-40%, ở Bangladesh là 70%, tại Kerala năm 2018 tỷ lệ tới 90%, tức trong 23 ca chỉ có 2 ca sống.
Hiện nay, bệnh do vi rút Nipah gây ra chưa có vắc xin phòng ngừa và thuốc điều trị đặc hiệu. Do đó công tác giám sát ngăn ngừa nguồn lây đóng vai trò quan trọng.
Tăng cường giám sát người nhập cảnh
Theo HCDC, bệnh do vi rút Nipah chưa ghi nhận tại Việt Nam. Hiện ngành y tế TP.HCM tiếp tục tổ chức giám sát các trường hợp đi về từ vùng dịch. Ngành y tế thực hiện giám sát 24/24 người nhập cảnh tại các cửa khẩu quốc tế (Cảng hàng hông quốc tế Tân Sơn Nhất và Cảng hàng hải TP.HCM) để phát hiện sớm các trường hợp sốt hoặc có dấu hiệu nghi ngờ bệnh truyền nhiễm nguy hiểm để cách ly, xử trí kịp thời ngay tại cửa khẩu, trong đó có tăng cường giám sát người nhập cảnh từ các vùng đang bùng phát dịch.
HCDC cũng lưu ý các hành khách đi về từ vùng dịch, nếu có các triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh như: sốt, nhức đầu từ 3-14 ngày cùng với các dấu hiệu hô hấp (ho, đau họng và khó thở) cần liên hệ ngay với cơ sở y tế để được tư vấn và điều trị kịp thời.