Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Lê Thị Thuỳ Vân – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính cho biết, tình hình biến đổi khí hậu hiện nay gây nên những hiện tượng đáng lo ngại về khí hậu và thời tiết, trong đó có thể kể đến tình trạng xâm nhập mặn, hạn hán, triều cường,… cùng với mức thiệt hại và tổn thất lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nói chung và đời sống của người dân nói riêng, ước tính mỗi năm, Việt Nam thiệt hại từ các thảm họa thiên tai khoảng 1,5 – 2% GDP.
Để khắc phục với những hậu quả về thiên tai, Việt Nam đã và đang huy động các nguồn lực tài trợ chủ yếu thông qua các chính sách về hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, Uỷ ban Tài chính, nguồn lực từ Quỹ Phòng chống rủi ro thiên tai và từ các tổ chức, cá nhân và các hình thức bảo hiểm… Có thể thấy, việc huy động các nguồn lực tài chính như vậy có thể hỗ trợ trong việc ứng phó và khắc phục thiệt hại thiên tai khoảng 30%. Đồng thời, với những nguồn ngân sách eo hẹp, việc xây dựng các kế hoạch tài chính ngân sách cần phải chủ động hơn và theo định hướng lâu dài. Dự báo đến năm 2030, tổng thiệt hại về thảm hoạ thiên tai sẽ gây thiệt hại đến GDP bình quân của Việt Nam là khoảng 3%. Do đó, Hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá tác động của thiên tai và đưa ra những biện pháp phòng chống thiên tai để giảm thiểu rủi ro về tổn thất tài chính tại Việt Nam.
Trong các tham luận tại Hội thảo, ông Nguyễn Xuân Tùng – Cục Quản lý đê điều và phòng chống thiên tai, Tổng cục phòng chống thiên tai đã trình bày về tình hình thiệt hại do thiên tai ở Việt Nam, trong đó các hiện tượng thiên tai như bão, mưa lớn, lũ quét, ngập lụt và sạt lở núi, sụt lún đất do hạn hán đã gây thiệt hại khoảng 300 người chết và mất tích/năm, thiệt hại về kinh tế từ 1 – 1,5% GDP được tính qua các năm từ 2017 – 2022. Đặc biệt, hiện tượng bão Molave (bão số 9) đổ bộ vào Quảng Ngãi năm 2020 đã làm 88.591 nhà bị tốc mái, hơn 2500 nhà bị sập và tổng thiệt hại ước tính lên đến 10.000 tỷ đồng.
Do thiên tai tác động ngày càng cực đoan, bất thường, vượt mức kỷ lục trên phạm vi toàn quốc, kéo dài trong cả năm, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội, vì vậy, ông Xuân Tùng đã đưa ra một số kiến nghị về giải pháp trong thể chế, chính sách như cần lồng ghép các nội dung phòng, chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tổ chức thực hiện, kết hợp đa mục tiêu, nhất là sử dụng và huy động các nguồn lực về tài chính. Qua đó, các nguồn lực để khắc phục hậu quả về thiên tai cần có sự vào cuộc giữa các cơ quan quản lý Nhà nước; các nguồn lực từ địa phương và cũng cần sự đầu tư, hỗ trợ từ các nguồn tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời, để tái thiết lập lại những cơ sở hạ tầng cho nhân dân bị thiệt hại, cần đáp ứng khoảng 15 – 30% so với nhu cầu thực tế.
Trong các Nguồn lực tài chính cho ứng phó và khắc phục tổn thất tài chính do thảm hoạ thiên tai gây ra, ThS. Lưu Ánh Nguyệt – Viện Chiến lược và Chính sách tài chính cho rằng nguồn lực từ ngân sách Nhà nước chủ yếu từ Dự phòng ngân sách, Quỹ dự trữ tài chính, Nguồn dự trữ Nhà nước, chỉ kịp hỗ trợ chống thiên tai dưới hình thức chi, trợ cấp còn thấp, chưa đủ để bảo hiểm rủi ro thiên tai và chưa có chiến lược/ mô hình quản trị rủi ro, dẫn đến việc nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 25 – 35% nhu cầu khắc phục tổng thiệt hại do thiên tai mang lại hàng năm.
Vì vậy, để xây dựng chiến lược tổng thế về tài chính ứng phó và khắc phục rủi ro thiên tai, ThS. Ánh Nguyệt có đề xuất cần tập trung phát triển nguồn tài chính chủ động và khơi thông đầu tư từ thị trường vốn Quốc tế thông qua nguồn tài chính tài trợ trước và sau thiên tai, như vậy sẽ làm tăng hiệu quả chi của ngân sách Nhà nước, có thể xây dựng nhiều mô hình, chính sách ưu đãi ( tín dụng, thuế, chi phí bảo hiểm); Bổ sung thêm nguồn thu vào quỹ tài chính ngoài ngân sách và tín dụng trái phiếu thiên tai,… nhằm hỗ trợ cho những đối tượng bị ảnh hưởng ổn định được sản xuất, xây nhà tránh lũ, xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở cho người dân.
Về xây dựng bảo hiểm rủi ro thiên tai tại Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Hải Đường – Giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra các khuyến nghị về bảo hiểm rủi ro thiên tai thông qua Bảo hiểm nông nghiệp đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp và chính sách hỗ trợ cho một số nhóm đối tượng được cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho cây công nghiệp, cây ăn quả; Bảo hiểm tài sản; Bảo hiểm vi mô theo Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi bổ sung năm 2022 (Nghị định 21/2023/NĐ-CP: Quy định về bảo hiểm vi mô) nên được thực hiện đảm bảo cho quyền lợi của người dân khi xảy ra thiên tai.
Bên cạnh đó, TS. Hải Đường cũng chia sẻ các kinh nghiệm Quốc tế đối với bảo hiểm rủi ro thiên tai có thể áp dụng tại Việt Nam, trong đó tại Indonesia, Ngân hàng Thế giới đã hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Indonesia phát triển và thực hiện Chiến lược tài chính và bảo hiểm rủi ro thiên tai Quốc gia (DRIF), hoạt động này bảo hiểm cho các tài sản của Chính phủ đối với các rủi ro thiên tai.
Có thể thấy, để thực hiện xây dựng được bảo hiểm rủi ro thiên tai tại Việt Nam, cần có cam kết mạnh mẽ của hệ thống Chính trị, xây dựng cơ sở dữ liệu về rủi ro và tổn thất cùng mô hình đối phó với thảm họa thiên tai; Khuyến khích phát triển các sản phẩm bảo hiểm rủi ro (chỉ số rủi ro, bảo hiểm bồi thường) và cần tìm kiếm được các nhà tái bảo hiểm cùng sự hợp tác của các tổ chức quốc tế trong hoạt động kỹ thuật xây dựng mô hình ứng phó với thiên tai.
Trong Hội thảo, rất nhiều các tham luận và ý kiến đóng góp, xây dựng những phương án khắc phục tổn thất do thảm họa thiên tai gây ra đến từ các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong các cơ quan, Viện Chiến lược Chính sách, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu,…