Buổi họp báo do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ, chủ trì.
Thông tin về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2, Người phát ngôn của Chính phủ cho biết: Ngày 2/3, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 2 năm 2024 nhằm đánh giá tình hình KTXH tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2024; tình hình thực hiện 3 CTMTQG; giải ngân vốn đầu tư công cùng một số nội dung quan trọng khác; đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá trong thời gian tới.
Phiên họp diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt các xung đột ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, đe dọa an ninh năng lượng, lương thực. Trong nước, tháng 2 có kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Giáp Thìn phần nào ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh ở một số ngành, lĩnh vực.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương đã tập trung chỉ đạo điều hành, thực hiện quyết liệt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong đó bảo đảm Nhân dân cả nước đón Tết đầm ấm, vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, nghĩa tình, không để ai không có Tết theo Chỉ thị của Ban Bí thư. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế (ban hành 17 nghị định, 1 quyết định quy phạm); ban hành 07 chỉ thị, 04 công điện và tập trung đôn đốc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết; thúc đẩy các công trình hạ tầng…
Tình hình KTXH tháng 2 và 2 tháng đầu năm tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, hầu hết các lĩnh vực đạt kết quả tốt hơn so với cùng kỳ năm 2023, tạo động lực mới, khí thế mới và đà phát triển thời gian tới.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. Cả 3 khu vực đều phát triển tốt: (i) Nông nghiệp phát triển ổn định. (ii) Sản xuất công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm 2,9%). (iii) Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,1%; khách quốc tế đạt trên 3 triệu lượt, tăng 68,7%.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 18,6%, trong đó xuất khẩu tăng 19,2% (khu vực trong nước tăng 33,3%, cao hơn nhiều khu vực FDI (14,7%); nhập khẩu tăng 18%; xuất siêu 4,72 tỷ USD.
Thu NSNN 2 tháng ước đạt 23,5% dự toán năm, tăng 10,4%. An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu gạo 2 tháng đạt 912.000 tấn, kim ngạch 639 triệu USD); bảo đảm được cân đối cung cầu lao động.
Đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả tích cực. Giải ngân vốn đầu tư công 2 tháng đạt 9,13% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ (6,97%). Thu hút FDI đạt 4,29 tỷ USD, tăng 38,6%; vốn FDI thực hiện đạt 2,8 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ, thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư vào tình hình phát triển KTXH của đất nước tăng lên.
Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tăng. Trong 2 tháng đầu năm có trên 22.100 DN thành lập mới, tăng 12,4% và có 19.000 DN hoạt động trở lại, tăng 4,4%; nâng tổng số DN gia nhập thị trường lên hơn 41 .000 DN, tăng 8,5% so với cùng kỳ.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân được cải thiện. Trong tháng 2, có 94,2% số hộ gia đình được đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2023 (93,9%).
Nhiều tổ chức, chuyên gia quốc tế tiếp tục đánh giá cao kết quả chỉ đạo điều hành và triển vọng của kinh tế Việt Nam, trong đó IMF dự báoViệt Nam nằm trong nhóm 20 nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới.
Bên cạnh khẳng định những kết quả đạt được, Thủ tướng Chính phủ cũng nêu lên những hạn chế, tồn tại, khó khăn, thách thức, trong đó nổi lên là: (1) Sức ép chỉ đạo điều hành kinh tế vĩ mô còn cao; (2) Tình hình SXKD trong một số lĩnh vực còn nhiều khó khăn; (3) Khó khăn, vướng mắc đối với thị trường bất động sản từng bước được xử lý nhưng còn chậm; (4) Nợ xấu có xu hướng tăng; mặt bằng lãi suất cho vay tuy đã giảm nhưng còn cao; (5) An ninh, trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm, nhưng tại một số địa bàn còn diễn biến phức tạp…
Trước tình hình đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên cho tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới. Cụ thể: (1) Về đầu tư, tạo thuận lợi thu hút, giải ngân đầu tư toàn xã hội; quyết liệt xử lý vướng mắc, tích cực hỗ trợ đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư; tăng cường xúc tiến, thu hút dự án FDI. (2) Về xuất khẩu, củng cố các thị trường truyền thống, mở rộng các thị trường mới; thực hiện hiệu quả các FTA. (3) Về tiêu dùng, đẩy mạnh khuyến mại, giảm giá, thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; có giải pháp mạnh mẽ thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới.
Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, 03 CTMTQG; đẩy nhanh phê duyệt quy hoạch.
Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho SXKD. Quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Tập trung triển khai thực hiện Đề án 06.
Chú trọng các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường; bảo đảm ASXH, đời sống Nhân dân.Chủ động rà soát, nắm bắt tình hình đời sống nhân dân, hỗ trợ gạo kịp thời trong dịp giáp hạt. Chuẩn bị thực hiện chế độ tiền lương mới từ ngày 1/7.