Nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10/2004 – 13/10/2024), Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV PetroVietnam Lê Mạnh Hùng đã có bài viết về chặng đường phát triển và đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trong đó gửi gắm những kỳ vọng mới, để tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển hùng cường của đất nước.
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV PetroVietnam Lê Mạnh Hùng phát biểu tại cuộc gặp mặt doanh nhân tiêu biểu của Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ ngày 4/10. (Nguồn: PVN) |
Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) đang hướng tới mục tiêu trở thành Tập đoàn Công nghiệp – năng lượng quốc gia, giữ vai trò tiên phong phát triển các lĩnh vực về năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Để làm được điều đó, bên cạnh sự hỗ trợ của Chính phủ, Bộ/Ngành để thể chế hóa thành các cơ chế chính sách, đòi hỏi PetroVietnam cần chuyển dịch mô hình kinh doanh mạnh mẽ, đột phá hơn nữa để có thể bắt kịp các Tập đoàn cùng ngành trong khu vực, qua đó đóng góp nhiều hơn nữa vào quá trình phát triển hùng cường của đất nước.
Ngay sau khi thành lập nước, ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam – Người khẳng định: “Giới công thương là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Công thương cứu quốc đoàn – tổ chức của giới doanh nhân là một thành viên của hệ thống chính trị của đất nước”.
Và cách đây tròn 20 năm, để phát huy vai trò, truyền thống của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, ngày 20/9/2004, cố Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 990/QĐ-TTg, lấy ngày 13/10 hằng năm là “Ngày Doanh nhân Việt Nam”.
Trong chặng đường phát triển, với những thành tựu mà cộng đồng doanh nghiệp đã đạt được luôn có sự quan tâm, hỗ trợ và đồng hành của Đảng và Nhà nước.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp (DN) thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thực tế cho thấy DNNN/DN có vốn góp của Nhà nước hiện diện trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế (sân bay, cảng biển, dầu khí, than, khoáng sản, đường sắt, ngân hàng…), nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, đóng góp quan trọng vào ngân sách Nhà nước. Đặc biệt DNNN còn hiện diện tại những ngành lĩnh vực nhiều rủi ro, biên lợi nhuận thấp, địa bàn khó khăn…
Trong giai đoạn 2021- 2023, các DN 100% vốn nhà nước duy trì nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ DN trên thị trường, chiếm khoảng 25,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các DN. Các DNNN đóng góp khoảng 28% thu NSNN, thu hút khoảng 0,7 triệu lao động, chiếm khoảng 7,3% lao động của toàn bộ khu vực DN.
Trước bối cảnh này, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ chính nội tại DN và cùng với đó là sự hỗ trợ cũng như tạo cơ chế chính sách của Chính phủ cho DNNN để có thể phát triển một cách ổn định và bền vững. Cụ thể:
Đối với DNNN: cần tập trung đầu tư cho Khoa học công nghệ; Đổi mới công tác quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại, số hóa, minh bạch; Nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng tích lũy năng lực tài chính.
Đối với Nhà nước, Chính phủ, chúng tôi mong muốn:
Thứ nhất, sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, các quy định pháp luật về quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn, tài sản đất đai…
Thứ hai, ban hành các cơ chế phân cấp, phân quyền ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đảm bảo tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là đối với các Tập đoàn/Tổng công ty Nhà nước nắm giữ các ngành nghề then chốt, quan trọng của đất nước và có quy mô lớn.
Thứ ba, cho phép một số các Tập đoàn kinh tế nhà nước lớn, có hoạt động kinh doanh chịu nhiều rủi ro, biến động của thị trường, thiên tai, thực hiện trách nhiệm đầu tư/khai mở các lĩnh vực kinh doanh mới được hình thành Quỹ dự phòng tài chính trích từ lợi nhuận sau thuế hàng năm để bù đắp cho các tổn thất (nếu có) xảy ra, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của DN.
Thứ tư, Nhà nước có cơ chế thí điểm tăng cường năng lực tài chính cho một số DNNN trọng điểm để phát triển mở rộng ra thị trường quốc tế, tạo thương hiệu quốc gia.
Và cuối cùng là đổi mới trong đánh giá hiệu quả đối với DNNN theo hướng giao chỉ tiêu, mục tiêu; tạo tính chủ động sáng tạo cho doanh nghiệp trong hoạt động SXKD đi kèm với công tác kiểm tra, giám sát để đảm bảo DNNN phát triển đúng định hướng, đạt mục tiêu đề ra.
Với riêng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, PetroVietnam là doanh nghiệp hoạt động theo mô hình NOC và là một trong 6 tập đoàn kinh tế do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, các hoạt động của PetroVvietnam có ảnh hưởng trọng yếu đối với toàn bộ chuỗi giá trị năng lượng tại Việt Nam; hoạt động sản xuất kinh doanh của PetroVietnam rất hiệu quả và là DNNN đóng góp lớn nhất cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước (nộp NSNN (2021-2023) chiếm tỷ trọng bình quân 8,4%/năm tổng thu ngân sách cả nước).
Về nguồn lực của PetroVietnam hiện tại: Tổng tài sản hợp nhất tính đến 31/12/2023 đạt trên 1,01 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 26,0% tổng tài sản của toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước (3,82 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 28,1% tổng tài sản của các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước (3,51 triệu tỷ đồng).
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ hữu (ROE) PetroVietnam giai đoạn 2021- 2023 đạt 8,3%/ năm. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA) giai đoạn 2021- 2023 đạt 4,3%/ năm, cao hơn 0,3 điểm % so với các doanh nghiệp nhà nước (4,0%).
Có thể thấy, nếu so với doanh nghiệp trong nước PetroVietnam lớn mạnh hàng đầu, tuy nhiên nếu so với khu vực và quốc tế còn khá khiêm tốn. Bên cạnh đó, PetroVietnam cũng đang gặp những thách thức chung đến từ bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế. Trước xu thế này, đòi hỏi PetroVietnam cần chuyển dịch mô hình kinh doanh mạnh mẽ, đột phá hơn nữa để có thể bắt kịp các Tập đoàn cùng ngành trong khu vực.
Ngày 24/4 vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận 76 mở ra không gian phát triển mới, cơ chế tạo nguồn lực để ngành dầu khí/Petrovietnam phát triển. PetroVietnam rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ, Bộ/Ngành để thể chế hóa thành các cơ chế chính sách cụ thể mà trước hết là cụ thể hóa trong Điều lệ và Quy chế tài chính của Tập đoàn.
Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, PetroVietnam đã, đang và sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển hùng cường của đất nước.
PetroVietnam cùng các DN/DNNN luôn hiểu rằng, để đạt được những thành công ngoài sự nỗ lực, quyết tâm của Lãnh đạo và tập thể người lao động tại doanh nghiệp; Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân đã luôn đồng hành và tạo những điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp phát triển.
Một số thành tựu nổi bật của PetroVietnam trong giai đoạn 2021-2023: – Vốn Chủ sở hữu của PetroVietnam đến 31/12/2023 đạt trên 531,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,8% tổng vốn chủ sở hữu của toàn bộ các DNNN (1,80 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 32,8% tổng vốn chủ sở hữu của các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước (1,62 triệu tỷ đồng). – Tổng doanh thu toàn PetroVietnam giai đoạn 2021- 2023 đạt trên 834 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 20,2%/năm, so với năm 2020 doanh thu năm 2023 toàn PetroVietnam tăng 66,6% (942,8/566,0 nghìn tỷ đồng), cao hơn 24,2 điểm % so với mức tăng của các DNNN (là 42,4%, 2,30 triệu tỷ đồng/1,62 triệu tỷ đồng). – Lợi nhuận trước thuế hợp nhất PetroVietnam giai đoạn 2021-2023 đạt trên 61,4 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 60,5%/năm, cao hơn 55,4 điểm % so với mức tăng của các DNNN (5,1%); so với năm 2021, lợi nhuận hợp nhất của PetroVietnam tăng 9,1%. – Nộp Ngân sách nhà nước toàn PetroVietnam giai đoạn 2021- 2023 đạt 145 nghìn tỷ đồng/năm, tăng trưởng đạt 25,2% năm, chiếm tỷ trọng 8,4%/năm tổng thu ngân sách cả nước (năm 2021 chiếm 7,1%; 2022 là 9,6% và 2023 là 8,7%). – Tổng số lao động đến 30/6/2024 là: gần 54 nghìn người (trong đó: trình độ trên đại học >3.868 người; trình độ đại học >25.664 người). |
Nguồn: https://baoquocte.vn/chu-tich-hdtv-le-manh-hung-petrovietnam-manh-me-hon-dot-pha-hon-dong-gop-nhieu-hon-nua-cho-dat-nuoc-289713.html