Đối với những người làm công tác ngoại giao thế hệ chúng tôi, ông không chỉ là người lãnh đạo mà còn là người cha, người chú, người anh, người thầy và là người bạn lớn rất bình dị, gần gũi và thân thiết. Tại các hội nghị, hội thảo, chúng tôi rất thích và luôn chờ đợi được nghe ông phát biểu, bởi những thông tin và cách đặt vấn đề rất mới, cách tư duy logic, được hệ thống rất khoa học, chặt chẽ, cách trình bày gọn gàng, khúc chiết, giản dị, hóm hỉnh mà rất sâu sắc, gợi mở.
Ông thường nói: “Phải nhìn hiện tượng, sự việc trong sự phát triển, tức là phải trong trạng thái động, không phải tĩnh; phải nắm bắt, hiểu được quy luật của nó và tìm ra những gì là mới và tác động đến ta”. Chỉ qua vài “câu chuyện” – theo cách nói của ông, là mọi việc đều trở nên rõ ràng, sáng tỏ, rất dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm hơn. Khi phải giải quyết những vấn đề khó khăn, phức tạp, ông luôn xác định rất rõ và kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, song luôn nhắc nhở: làm ngoại giao trước hết phải chân thành, phải có trái tim nóng nhưng phải giữ cái đầu lạnh. Cần bình tĩnh xem xét mọi khía cạnh của vấn đề. Trong khi kiên định lập trường nguyên tắc, bảo vệ lợi ích của ta, cần phải tính đến lợi ích chung, lợi ích của đối tác để tìm ra được giải pháp lâu dài, đáp ứng quan tâm và lợi ích của các bên. Có lẽ đó là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ thuật đàm phán của ông, làm nên thành công của các đoàn đàm phán do ông trực tiếp chỉ đạo và dẫn dắt trong quá trình giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Là người lãnh đạo, ông rất sâu sát và tỉ mỉ. Khi tôi còn làm việc ở Vụ Báo chí, Bộ Ngoại giao, lúc đó ông đang là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, những văn bản Vụ Báo chí trình lên, được ông sửa rất tinh tế, sâu sắc, kỹ lưỡng tới từng dấu phẩy, từng chữ, từng từ, và nhiều khi chính ông trực tiếp viết. Ông nghiêm khắc nhưng luôn tôn trọng, lắng nghe, không khi nào nặng lời với cấp dưới, không bao giờ đòi hỏi cấp dưới phải phục vụ cá nhân mình.
Ông còn là tấm gương về tình yêu và sự đam mê với công việc, về tinh thần tự học không ngừng, ngay cả khi tuổi đã cao. Đối với ông, đọc và làm việc chính là cuộc sống. Ông đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu, đọc rất nhiều, và dù đã có kiến thức rất sâu, toàn diện về lịch sử, kinh tế, luật pháp, ông vẫn không ngừng cập nhật, không bỏ qua những cuốn sách mới nhất, những thông tin mới nhất mà chúng tôi còn chưa biết tới. Mới cách đây chưa đầy 3 tháng, ông vẫn gửi cho tôi tham khảo bài báo ông vừa viết, phân tích những biến chuyển của tình hình thế giới. Ông là cả một kho tàng về tri thức và kinh nghiệm, luôn quan tâm chia sẻ, dìu dắt, hướng dẫn các thế hệ sau. Công việc bận rộn nhưng ông luôn dành thời gian cho lớp trẻ. Khi Bộ Ngoại giao mở các lớp bồi dưỡng cán bộ trẻ, có triển vọng, ông đã nhiệt tình làm giảng viên, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình, nhất là về phương pháp nghiên cứu, kỹ năng đàm phán, thương lượng và các khóa bồi dưỡng này đã được các học viên đặt tên một cách rất thân thương và tự hào là “Lớp Vũ Khoan”.
Ông sống rất giản dị, coi trọng giá trị thực, rất dị ứng với thói xu nịnh, phô trương, hoa mỹ, và đặc biệt hết sức tiết kiệm trong chi tiêu tiền của Nhà nước. Mặc dù vậy, khi cần phải chi cho những việc cần thiết, ông quyết rất nhanh. Năm 2004, Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu (ASEM) lần đầu được tổ chức tại Việt Nam. Hội nghị có nội dung quan trọng là kết nạp các thành viên mới và nhận được sự quan tâm lớn từ báo chí quốc tế. Vụ Báo chí được giao nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tổ chức trung tâm báo chí của hội nghị. Chúng tôi rất băn khoăn vì số lượng phóng viên đăng ký tác nghiệp tại hội nghị lớn, nhưng ban tổ chức dự kiến chỉ bố trí phần diện tích rất nhỏ để xây dựng trung tâm báo chí, không đủ diện tích để thiết lập các cơ sở trang thiết bị phục vụ việc tác nghiệp của các phóng viên hình và tiếng. Ông lúc đó là Phó Thủ tướng, đã trực tiếp đến xem xét công tác chuẩn bị cho hội nghị và yêu cầu tôi báo cáo. Sau khi nghe tôi trình bày, ông nói: “Điều kiện của chúng ta còn nhiều khó khăn, cái gì không cần thiết, lãng phí thì không làm, nhưng cái gì cần thì phải làm”. Và ông chỉ đạo ngay phải dành thêm diện tích để lập trung tâm báo chí với đầy đủ trang thiết bị cần thiết cho phóng viên tác nghiệp. Nhờ đó, chúng tôi đã có trung tâm báo chí quốc tế của hội nghị, mặc dù còn khiêm tốn, nhưng hoạt động rất hiệu quả.
Sinh thời, ông cũng rất quan tâm đến công tác đối ngoại nhân dân. Khi tôi chuyển sang công tác tại Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, ông bảo: “Nếu các cháu và Liên hiệp cần gì thì cứ nói, giúp được gì chú sẽ giúp”. Khi chúng tôi mời ông đến nói chuyện với cán bộ, nhân viên cơ quan, mặc dù sức khỏe chưa hoàn toàn hồi phục sau đợt điều trị bệnh hiểm nghèo, ông vẫn rất nhiệt tình, tâm huyết, dành nhiều thời gian chia sẻ và truyền cảm hứng cho chúng tôi bằng những kỷ niệm sâu sắc và cảm động của ông về Bác Hồ, giúp chúng tôi hiểu thêm về phong cách, đạo đức của Bác và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại nhân dân. Không ngờ đây cũng là lần cuối cùng anh chị em cán bộ, nhân viên Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam được đón ông và nghe ông nói chuyện.
Ông đã về với thế giới người hiền, song với chúng tôi, những người có may mắn được biết ông, làm việc cùng ông, ông mãi mãi là người lãnh đạo, là người thầy được yêu quý và kính trọng; là “chú Vũ Khoan” – một con người bằng cuộc đời trọn vẹn của mình đã giúp ta hiểu thêm thế nào là “một người tử tế”.
NGUYỄN PHƯƠNG NGA
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
TIN BUỒN
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và gia đình vô cùng thương tiếc báo tin:
Đồng chí Vũ Khoan, sinh ngày 7-10-1937; quê quán: huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội; thường trú: số 9 Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội; tham gia công tác năm 1955; vào Đảng ngày 19-12-1961; Ủy viên Trung ương Đảng các khóa VII, VIII, IX; Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Ủy viên Ban Cán sự đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về nhân quyền, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và hải đảo, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về du lịch, Đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề đối ngoại; Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Thương mại; Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao; đại biểu Quốc hội khóa XI.
Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ và gia đình tận tình chăm sóc, cứu chữa, song do tuổi cao, sức yếu, đồng chí đã từ trần hồi 7 giờ 5 ngày 21-6-2023 (tức ngày 4 tháng 5 năm Quý Mão) tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hưởng thọ 87 tuổi.
Hơn 68 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
Để tỏ lòng thương tiếc và ghi nhận những thành tích, cống hiến của đồng chí Vũ Khoan, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quyết định tổ chức lễ tang đồng chí Vũ Khoan với nghi thức Lễ tang cấp Nhà nước.
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MTTQ VIỆT NAM
——————–
TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ VŨ KHOAN
Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ
Đồng chí Vũ Khoan, sinh ngày 7-10-1937; quê quán: huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội; thường trú: số 9 Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội; tham gia công tác năm 1955; vào Đảng ngày 19-12-1961.
QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
Trước năm 1955: Đồng chí làm việc tại Xưởng giấy 420 Cục Quân y, rồi vào Thiếu sinh quân Trung ương; học văn hóa tại Quế Lâm, Nam Ninh, Trung Quốc; học tiếng Nga ở Moscow.
Năm 1955 đến năm 1956: Đồng chí công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô.
Năm 1956 đến năm 1958: Đồng chí công tác tại Bộ Ngoại giao.
Năm 1958 đến năm 1961: Đồng chí công tác tại Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô, được phong hàm Tùy viên.
Năm 1961 đến năm 1964: Đồng chí học tại Trường Đại học Quan hệ quốc tế Moscow (MGIMO).
Năm 1964 đến năm 1968: Đồng chí tiếp tục công tác tại Bộ Ngoại giao.
Năm 1968 đến năm 1971: Đồng chí là Tùy viên rồi là Bí thư thứ ba Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô.
Năm 1971 đến năm 1977: Đồng chí là cán bộ nghiên cứu Vụ Liên Xô thuộc Bộ Ngoại giao.
Năm 1977 đến năm 1982: Đồng chí là Bí thư thứ nhất, Tham tán, Tham tán công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô; Đảng ủy viên Đảng ủy tại Liên Xô, Phó Bí thư, Bí thư Đảng ủy cơ quan Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô.
Năm 1982 đến năm 1990: Đồng chí công tác tại Bộ Ngoại giao và kinh qua các chức vụ: Phó Vụ trưởng, Vụ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng; Đảng ủy viên Đảng ủy cơ quan Bộ Ngoại giao và Đảng ủy khối Đối ngoại.
Năm 1990 đến năm 2000: Đồng chí là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) và lần thứ VIII (tháng 6-1996) của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1998, đồng chí là Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, được Chủ tịch nước phong hàm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền.
Tháng 2-2000 đến tháng 7-2002: Đồng chí là Bộ trưởng, Bí thư Ban Cán sự đảng Bộ Thương mại, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001) của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Bí thư Trung ương Đảng, phụ trách các vấn đề về đối ngoại (cả kinh tế đối ngoại); Ủy viên Ban Cán sự đảng Chính phủ (tháng 5-2001). Tháng 5-2002, đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa XI.
Tháng 8-2002 đến tháng 6-2006: Đồng chí là Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Cán sự đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ; kiêm nhiệm giữ các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về nhân quyền, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước về du lịch.
Tháng 7-2006 đến tháng 12-2007: Đồng chí là Đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề đối ngoại.
Tháng 1-2008: Đồng chí được Đảng, Nhà nước cho nghỉ hưu, hưởng chế độ, chính sách theo quy định.
Đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa VII, VIII, IX; Bí thư Trung ương Đảng khóa IX; đại biểu Quốc hội khóa XI.
Do có nhiều công lao và thành tích xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất; Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
——————–
THÔNG BÁO LỄ TANG ĐỒNG CHÍ VŨ KHOAN
Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban lễ tang Nhà nước gồm 26 đồng chí, do đồng chí Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban.
Linh cữu đồng chí Vũ Khoan quàn tại Nhà tang lễ Quốc gia (số 5 Trần Thánh Tông, TP Hà Nội).
Lễ viếng tổ chức từ 8 giờ đến 13 giờ 30 thứ ba, ngày 27-6-2023 (tức ngày 10 tháng 5 năm Quý Mão).
Lễ truy điệu vào hồi 13 giờ 30 thứ ba, ngày 27-6-2023.
Lễ an táng vào hồi 15 giờ cùng ngày tại Nghĩa trang Mai Dịch, TP Hà Nội.
BAN LỄ TANG