GDP (tổng sản phẩm trong nước) của Việt Nam năm 2023 ước tính tăng 5,05%, với quy mô GDP ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD.
Trong buổi họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế – xã hội quý IV và năm 2023 tại Hà Nội vào sáng 29/12, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương cho biết kinh tế – xã hội của Việt Nam trong năm 2023 tiếp tục điều chỉnh theo hướng tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, và cân đối lớn đạt được, đồng thời nhiều mục tiêu quan trọng trên các lĩnh vực đã đạt được, giữ vững vị thế là điểm sáng trong khu vực và trên thế giới.
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, GDP (tổng sản phẩm trong nước) của Việt Nam năm 2023 ước tính tăng 5,05%, vượt cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023.
Cụ thể, GDP quý IV/2023 ước tính tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước, với đà tăng tích cực hơn ở các quý trước. Trong GDP quý IV/2023, tiêu dùng cuối cùng đóng góp 53,18%, tích lũy tài sản đóng góp 44,18%, và xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,68%.
Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022.
Trong phân khúc kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 8,84%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 28,87%, và khu vực dịch vụ đóng góp 62,29%.
Tổng cục Thống kê cũng nhấn mạnh sự phát triển tích cực trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, đặc biệt là trong xuất khẩu nông sản và ứng dụng công nghệ cao trong nuôi tôm thẻ chân trắng.
Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp năm 2023 tăng 3,88% so với năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,74% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,71%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, khu vực công nghiệp và xây dựng gặp nhiều khó khăn do giảm tổng cầu thế giới, khiến giá trị tăng thêm chỉ tăng 3,02% so với năm trước, là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2023.
Cùng với đó, các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ năm 2023 tăng 6,82% so với năm trước, cao hơn mức tăng 2,01% và 1,75% của các năm 2020-2021.
Bên cạnh đó, một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: bán buôn và bán lẻ tăng 8,82% so với năm trước, đóng góp 0,86 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 9,18%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,24%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,24%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2023, phân bố tỷ trọng là 11,96% cho khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, 37,12% cho khu vực công nghiệp và xây dựng, 42,54% cho khu vực dịch vụ, và 8,38% cho thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động, tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022. Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022).
Tổng cục Thống kê cũng nhìn nhận rằng, mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng năm 2024, nền kinh tế – xã hội của Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới không ổn định và nhanh chóng biến động. Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong năm 2024, sự chung sức và đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp, và nhân dân được đặt ra là quan trọng, cùng với việc tập trung triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển./.
Mai Hương