Lại một lần nữa, câu chuyện làm sao chủ động được nguồn trứng giống tằm được quan tâm đặc biệt tại hội nghị “Phát triển bền bền vững ngành dâu tằm tơ VN” do Bộ NN-PTNT phối hợp với UBND tỉnh Lâm Đồng tổ chức tại TP.Đà Lạt ngày 2.12.
Hồi sinh ngành dâu tằm tơ
Ông Tống Xuân Chinh, Phó cục trưởng Cục chăn nuôi, cho biết, nghề trồng dâu nuôi tằm có từ lâu đời và trở thành nghề truyền thống tại VN. Dâu tằm tơ đã gắn bó với bao thế hệ người nông dân và trở thành một nét văn hóa trong đời sống của người Việt. Trong quá trình hình thành và phát triển đã có những bước thăng trầm, có thời điểm diện tích dâu tằm đạt 38.000 ha, sản lượng kén 26.000 tấn/năm (1995). Thế nhưng, đến nay chỉ một số địa phương có lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, đất đai mới tiếp tục phát triển.
Diện tích dâu tằm tăng trưởng bình quân giai đoạn 2018 – 2022 là 12,15%. Hiện nay cả nước có 32 tỉnh có nghề trồng dâu nuôi tằm với diện tích khoảng 13.200ha dâu. Sản lượng kén tăng trưởng bình quân giai đoạn 2018 – 2022 là 19,33% (năm 2019 là 11.855 tấn kén, đến năm 2022 là 16.824 tấn). Hiện nay, với giá kén vàng từ 110.000 – 120.000đ/kg, giá kén trắng từ 170.000 – 205.000đ/kg, người nông dân trồng dâu nuôi tằm thu nhập cao gấp 2 đến 3 lần so với các cây trồng khác như lúa, chè, mía… Sản lượng tơ tằm của VN đứng trong top 5 thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ, Uzbekistan và Thái Lan.
Dù vậy, mỗi năm VN vẫn phải nhập khẩu hàng nghìn tấn tơ tằm thô chủ yếu từ các nước Nhật Bản, Trung Quốc và Uzbekistan… để làm gia công nhằm mục đích xuất khẩu.
Mãi lo chuyện trứng giống tằm
Theo ông Chinh, cơ cấu giống tằm VN có hai loại chính: tằm dâu và tằm thầu dầu lá sắn. Nhu cầu trứng tằm dâu phục vụ sản xuất khoảng 450.000 – 500.000 hộp trứng/năm, trong khi nhu cầu trứng tằm sắn phục vụ sản xuất khoảng 90.000 – 95.000 hộp/năm. Hiện nay, những giống tằm chính đang được nuôi lấy tơ là tằm lưỡng hệ kén trắng cho chất lượng tơ cao; giống tằm đa hệ kén vàng cho chất lượng tơ thấp hơn và tằm đa hệ lai. Trong đó, giống tằm lưỡng hệ kén trắng phải nhập khẩu khoảng 90% từ Trung Quốc (theo đường tiểu ngạch). Việc vận chuyển đường dài, qua biên giới, mất nhiều thời gian, mặt khác do không được kiểm tra chất lượng và kiểm soát dịch bệnh dẫn tới rủi ro cao cho người sản xuất.
Bà Nguyễn Thị Phương Lan, Giám đốc Công ty TNHH Minh Quang Lâm (TP.Bảo Lộc, Lâm Đồng), thừa nhận, chúng ta phụ thuộc đến hơn 90% lượng trứng lưỡng hệ Trung Quốc. Dù đã nuôi trên 30 năm rồi nhưng đến nay vẫn chưa được phép nhập khẩu chính ngạch. “Khi chúng tôi muốn nhập khẩu qua đường hàng không thì phải thông qua một công ty bạn và chi phí là khá cao. Việc đi đường tiểu ngạch dẫn đến nhiều rủi ro về khâu bảo quản, không đúng tiêu chuẩn của con giống, làm cho độ nở con giống không ổn định, ảnh hưởng đến chất lượng con giống. Trong đợt Covid-19 vừa rồi, chúng tôi đã phải hủy trên 1.000 bìa trứng vì không đảm bảo về chất lượng cũng như độ nở của trứng”, bà Lan nói.
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Phúc, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, thông tin là “thủ phủ” dâu tằm tơ của cả nước, bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn những tồn tại, bất cập. Hệ thống sản xuất trứng giống tằm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng; trứng giống chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc theo đường tiểu ngạch không được kiểm soát chất lượng và nguồn gốc; công tác quản lý và sản xuất, kinh doanh trứng giống tằm còn nhiều bất cập, hành lang pháp lý chưa thật sự rõ ràng…
Trong khi đó, theo Hiệp hội dâu tằm tơ VN, hiện chúng ta chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm lưỡng hệ kén trắng và phụ thuộc rất lớn nguồn trứng giống nhập từ Trung Quốc, dẫn đến ngành chăn nuôi tằm phát triển thiếu bền vững, không chủ động được kế hoạch sản xuất, không kiểm soát được chất lượng và dịch bệnh. Vì vậy nên cần xây dựng chiến lược phát triển ngành dâu tằm tơ VN, đàm phán với Trung Quốc ở tầm cấp quốc gia để nhập trứng tằm bằng con đường chính ngạch, đồng thời từng bước đưa 2 giống tằm nội địa VH2020, LĐ-09 ra sản xuất.
Theo ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, cả nước có khoảng 38.000 hộ dân với 101.000 người tham gia vào ngành dâu tằm tơ, ngành này mang lại giá trị xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, tồn tại, khó khăn lớn nhất hiện nay là vấn đề giống, việc này rất cần tháo gỡ. Bên cạnh đó là chế biến và liên kết cũng gặp không ít khó khăn. Vì vậy, đầu tiên là các đơn vị phải tập trung xây dựng đề án chiến lược phát triển ngành dâu tằm tơ, tiếp đến tổ chức nghiên cứu, phát triển giống, thực hiện nghiêm túc các chương trình khoa học về giống. Phải tăng cường công tác quản lý khoa học công nghệ, các cơ sở phải đảm bảo về năng lực nghiên cứu cũng như sản phẩm phải đáp ứng được các yếu tố không chỉ về chất lượng mà còn về giá thành, đồng thời phối hợp xây dựng chuỗi liên kết, tổ chức xúc tiến thương mại mở rộng thị trường…