Đúng như dự báo của các chuyên gia và kỳ vọng của thị trường, đà tăng nhanh của lạm phát trong hai tháng đầu năm nay đã chững lại trong tháng 3 vừa qua sau khi yếu tố “mùa vụ” qua đi.
Qua thời điểm tăng do “mùa vụ”
Số liệu của Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, so với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 3 tăng 3,97% – đã chững lại so với tháng 2 (tăng 3,98%). Trong khi so với tháng 12/2023, CPI tháng 3 tăng 1,12%, ghi nhận tốc độ tăng đã giảm so với tháng 2 (tăng 1,35%). Và nếu so với tháng trước, CPI tháng 3 đã giảm 0,23%, trong khi CPI tháng 2 tăng 1,04%. CPI tháng 2 tăng so với tháng trước khi có tới 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng; 02 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Trong khi đó diễn biến CPI tháng 3 ngược lại, mức giảm 0,23% so với tháng trước có được nhờ 7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, chỉ còn 04 nhóm hàng có chỉ số giá tăng.
Đáng chú ý, một số nhóm hàng hóa và dịch vụ chiếm cấu phần lớn và tác động mạnh khiến CPI chung tăng trong tháng 2 như chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (nhất là lương thực và thực phẩm), nhóm giao thông… đã ghi nhận chỉ số giá giảm khá mạnh trong tháng 3. Những diễn biến như vậy phần nào là các chỉ dấu cho thấy, giá cả bắt đầu đi vào xu hướng ổn định tương đối, trở về trạng thái bình thường sau khi yếu tố “mùa vụ” (dịp Tết Nguyên đán) đã ở lại phía sau.
Bên ngoài, kinh tế thế giới đang cho thấy tín hiệu hồi phục tốt hơn, trong khi lạm phát giảm nhanh, lãi suất đã dừng đà tăng và bắt đầu giảm. Kết hợp các yếu tố trong và ngoài nước như vậy, đây là những cơ sở để các chuyên gia tin tưởng khả năng kiểm soát lạm phát năm 2024 như mục tiêu đặt ra là khả thi. Như TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhận định, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm nay có thể đạt trong khoảng 6,0% – 6,5% và lạm phát hoàn toàn trong tầm kiểm soát, có thể ở mức dưới 4%.
Một lưu ý là tăng trưởng GDP quý I/2023 tăng 3,41% trong khi CPI bình quân tăng 4,18%; lạm phát cơ bản tăng 5,01% so với cùng kỳ năm trước. Còn trong quý I/2024, GDP tăng 5,66%, trong khi CPI bình quân chỉ tăng 3,77%; lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,81%. Điều này ít nhiều cho thấy, chỉ số lạm phát và tăng trưởng GDP hiện nay đang có sự “đồng nhịp” hơn so với cùng kỳ năm ngoái và báo hiệu xu hướng tích cực cho nền kinh tế trong thời gian tới.
Theo bà Nguyễn Thu Oanh – Vụ trưởng Vụ Thống kê giá, Tổng cục Thống kê, với nhiều giải pháp được triển khai thời gian qua như giảm mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định thị trường ngoại hối; triển khai các gói tín dụng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ từ 10% xuống 8%; đảm bảo nguồn cung hàng hóa dồi dào… đã giúp kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, những thách thức, khó khăn tác động đến lạm phát trong thời gian tới vẫn còn.
Bên ngoài, lạm phát toàn cầu dù đang theo xu hướng hạ nhiệt nhưng vẫn tiềm ẩn những rủi ro có thể tạo nên cú sốc mới. “Việt Nam có độ mở kinh tế lớn nên những thay đổi của lạm phát thế giới sẽ nhanh chóng tác động tới lạm phát của Việt Nam, bà Nguyễn Thu Oanh nhận định.
Ở trong nước, một số yếu tố cũng có khả năng tạo áp lực lạm phát trong thời gian tới. Trong đó, nhu cầu nhập khẩu gạo của các quốc gia dự báo sẽ tiếp tục tăng cao như Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc, UAE… điều này mặc dù giúp cho xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục thuận lợi với giá cao nhưng đồng thời cũng sẽ kéo giá gạo trong nước tăng lên.
Điều hành chủ động, linh hoạt các chính sách vĩ mô
Theo các chuyên gia, áp lực lạm phát còn đến từ giá năng lượng. Trong đó, điện là mặt hàng rất quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng nên có tác động khá lớn tới lạm phát, chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 10% sẽ tác động trực tiếp làm CPI tăng 0,33%. Trong năm 2024, EVN có thể sẽ tiếp tục các đợt tăng giá điện để đảm bảo phản ánh biến động của các chi phí đầu vào của giá điện. Cùng với đó, biến động của giá dầu thế giới tác động đến xăng dầu trong nước. Giá nhiên liệu đang ở mức cao và các chuyên gia quốc tế dự báo từ nay đến cuối năm giá xăng dầu sẽ tiếp tục xu hướng tăng kéo theo giá xăng dầu trong nước tăng lên, tạo áp lực lên lạm phát.
Ngoài ra, nếu điều chỉnh giá dịch vụ do nhà nước quản lý theo hướng tính đúng, tính đủ các yếu tố, các chi phí thực hiện vào giá dịch vụ y tế và học phí giáo dục sẽ tác động làm tăng CPI. Cải cách tiền lương của khu vực nhà nước và tăng lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp dự kiến được thực hiện từ 1/7/2024 có thể làm gia tăng kỳ vọng lạm phát kéo theo giá các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng lên. Đẩy mạnh giải ngân đầu tư công một mặt giúp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế nhưng mặt khác có thể tạo sức ép lên mặt bằng giá trong thời gian tới.
Trên cơ sở tình hình thị trường trong nước quý I/2024, đánh giá tình hình thế giới và phân tích các yếu tố tác động tới lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới, Tổng cục Thống kê xây dựng một số kịch bản lạm phát cho năm 2024. Các kịch bản lạm phát được xây dựng thông qua dự báo biến động giá của các nhóm hàng hóa và dịch vụ ảnh hưởng nhiều tới chỉ số giá tiêu dùng như lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, xăng dầu, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục… Theo đó, ba kịch bản lạm phát năm 2024 tương ứng với CPI bình quân năm lần lượt là 3,8%; 4,2% và 4,5%.
Để kiểm soát lạm phát năm 2024 đạt được mục tiêu đề ra, các chuyên gia kiến nghị một số giải pháp. Trong đó, đối với việc tăng giá các hàng hóa và dịch vụ do nhà nước quản lý, các bộ ngành cần sớm lên kế hoạch, xây dựng phương án, lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do mình quản lý, từ đó Ban Chỉ đạo Điều hành giá của Chính phủ quyết định thời điểm, mức độ điều chỉnh một cách đồng bộ, thống nhất sao cho phù hợp với thị trường mà vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt Nam để có các biện pháp ứng phó phù hợp nhằm đảm bảo nguồn cung, bình ổn giá trong nước. Các bộ ngành, địa phương cần theo dõi sát diễn biến giá cả của các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, thịt lợn, xăng dầu, gas…) có giải pháp điều hành chủ động, phù hợp để hạn chế tăng giá. Đồng thời cần có các biện pháp kiểm soát, bình ổn giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tránh để xảy ra hiện tượng tăng giá bất hợp lý, tung tin thất thiệt gây bất ổn thị trường.
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Cùng với đó là tăng cường công tác truyền thông, đưa thông tin kịp thời, minh bạch, tạo sự đồng thuận trong dư luận đối với công tác điều hành giá của Chính phủ, ổn định tâm lý người tiêu dùng và ổn định kỳ vọng lạm phát.