Đó là nhận định được ông Nguyễn Tuấn, Trưởng Ban Thương mại, Tổng công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) đưa ra Tọa đàm “Luật Điện lực (sửa đổi): Các khoảng trống pháp lý cần được lấp đầy và bổ sung theo tinh thần Nghị quyết 55-NQ/TW, Kết luận 76-KL/TW” ngày 16/10.

Dự thảo hiện có 130 điều, tuy nhiên mục về điện gió ngoài khơi chỉ có 9 điều, đưa ra quy định chung, khái quát.

Petrovietnam và PTSC đã kiến nghị 17 vấn đề với mục tiêu làm rõ định hướng và chính sách phát triển, tuy nhiên mới chỉ có 4 chỉ tiêu được tiếp thu. Các kiến nghị chưa được tiếp thu, gồm: Định hướng, mô hình cho các giai đoạn phát triển; thể chế hóa được vai trò của Petrovietnam theo Kết luận 76-KL/TW; thống nhất về đầu mối quản lý và vai trò của Chính phủ; sự đồng bộ giao đất với khu vực biển; cơ chế rõ ràng cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi.

điện-gio-ngoai-khoi
Điện gió ngoài khơi là loại hình mới mẻ ở Việt Nam

Điều này dẫn đến sự không rõ ràng về trình tự, thủ tục cho điện gió ngoài khơi, thiếu cơ chế để phát triển các dự án bền vững; tạo khoảng trống pháp lý cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi; không tạo đòn bẩy để đầu tư, phát triển chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.

Đặc biệt, theo ông Tuấn, các dự án điện gió ngoài khơi là lĩnh vực mới ở Việt Nam rất cần cơ chế thí điểm, do đó, PTSC kiến nghị Dự thảo Luật giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định phân kỳ các giai đoạn phát triển của ngành; tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư, phân cấp thẩm quyền, thủ tục phê duyệt chủ trương; phát triển thí điểm các dự án điện gió ngoài khơi phục vụ trong nước và xuất khẩu.

Đại diện PTSC e ngại chủ trương đấu thầu các dự án điện gió ngoài khơi khi thị trường còn sơ khai nên kiến nghị cần phát triển loại hình năng lượng này theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có những chính sách khác nhau. 

Ngoài ra, với lý do đầu tư điện gió ngoài khơi rất tốn kém, ông Tuấn kiến nghị ưu đãi với điện gió ngoài khơi cần có cơ chế đột phá với nhà đầu tư. Nếu không có cơ chế ưu đãi, thị trường chưa phát triển thì nhà đầu tư quay lưng bỏ đi. Không ai dám bỏ tiền vào khi chưa có cơ chế ưu đãi của nhà nước.

“Ví dụ Nhà nước có thể miễn giảm tiền sử dụng mặt biển. Diện tích sử dụng mặt biển khá lớn, cho nên tiền sử dụng mặt biển là gánh nặng cho doanh nghiệp khi đầu tư. Mặt khác, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên được xem xét trong cả vòng đời dự án, bởi chúng ta đã có cơ chế ưu đãi thuế cho nhà đầu tư nước ngoài thì cần có cơ chế ưu đãi cho điện gió ngoài khơi”, đại diện PTSC gợi ý.

Bàn luận về các vướng mắc của điện gió ngoài khơi, TS. Dư Văn Toán, Viện Khoa học môi trường, biển và hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, ở Việt Nam điện gió ngoài khơi có tiềm năng tốt, nhất là vùng Nam Trung Bộ, do đó, việc đăng ký diện tích biển để khảo sát, đầu tư thực hiện đang “cháy chỗ”.

Theo TS. Dư Văn Toán, hiện có 4 vướng mắc của dự án điện gió ngoài khơi theo xác định của Bộ Công Thương: Chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.

Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt, nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện VIII. Các vướng mắc về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư. Các điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Ông Toán nhìn nhận câu chuyện quy hoạch cần Luật Điện lực (sửa đổi) sớm rà soát tới vấn đề cấp phép với các tiêu chuẩn đo lường.

Từ thực tế đó, TS. Dư Văn Toán đề xuất có cơ chế để phục vụ dự án thí điểm, kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về thí điểm phát triển điện gió ngoài khơi, với quy mô ở mức 1.000 MW – 2.000 MW, đồng thời quy định thời gian, giá cả triển khai.

Về khu vực, vị trí diện tích khảo sát, ông Toán cho rằng, PTSC cần kiến nghị thực hiện thí điểm ở khu vực biển Quảng Ninh hoặc Bình Thuận – hai khu vực có sức gió tốt, thuận lợi về mảng giao biển và dễ dàng huy động các đối tác. Ngoài ra, ông Toán cũng đề cập tới các cơ chế thí điểm về khảo sát sơ bộ, thời gian, diện tích, vốn, quá trình quản lý – nghiệm thu – đánh giá.