Cao Văn Khánh sinh năm 1917, tại Huế trong một gia đình quý tộc trí thức của triều Nguyễn. Ông tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Đông Dương, nhưng ông không hành nghề luật mà làm thầy giáo dạy toán trường tư ở Huế.
Sau ngày nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ra đời, Cao Văn Khánh tham gia thành lập và là Phó Chủ tịch Giải phóng quân Huế, về sau sáp nhập với Việt Minh. Khi quân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam bộ (23/9/1945), ông được cử theo đoàn quân Nam tiến vào Bình Định, rồi trở thành Ủy viên Quân sự Bình Định. Sau đó, ông được cử làm Khu trưởng Khu V. Giữa năm 1946, ông là Đại đoàn trưởng Đại Đoàn 27. Tháng 12/1947, ông trở lại làm Khu trưởng Khu V.
Tháng 8/1949, ông được điều ra Bắc làm Đại đoàn phó Đại đoàn 308, Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông cùng đại đoàn tham gia nhiều chiến dịch từ Chiến dịch Biên giới 1950, đến các Chiến dịch Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung (1951), Chiến dịch Hòa Bình (1952), Chiến dịch Tây Bắc (1952)…
Theo lời kể của các cựu chiến binh Điện Biên năm xưa, Cao Văn Khánh có người yêu là Nguyễn Thị Ngọc Toản, nữ cứu thương mặt trận Điện Biên Phủ. Hai người quen nhau khi Ngọc Toản còn là nữ sinh khuê các, xinh đẹp trường Đồng Khánh, Huế, con cụ Thượng thư Bộ Hình Tôn Thất Đàn, một gia đình trâm anh thế phiệt. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả thầy Khánh và cô học trò Ngọc Toản nghe lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đều lên đường tham gia chiến đấu. Thầy Khánh làm ở Ban Chỉ huy Giải phóng quân, còn nữ sinh Ngọc Toản tham gia cứu thương. Họ nẩy nở tình cảm khi Cao Văn Khánh được điều ra chiến khu Việt Bắc, giữ chức Đại đoàn Phó, Đại đoàn 308.
Tại Chiến khu Việt Bắc, do tình duyên hay số phận, Cao Văn Khánh gặp lại cô nữ sinh khuê các ngày nào, giờ đã trở thành một nữ cứu thương gan dạ.
Tình yêu giữa hai người không lãng mạn như mối tình trong phim ảnh hiện đại. Chuyện tình giữa tướng Cao Văn Khánh và Ngọc Toản bắt đầu một cách bất ngờ.
Chuyện kể rằng: Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại đoàn 308, tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng. Tham dự buổi lễ có Cục trưởng Cục Tuyên huấn Lê Quang Đạo. Ngoài việc công, ông Đạo còn có một “bí mật” giúp cho Đại đoàn phó Cao Văn Khánh. Tướng Đạo đưa cho Cao Văn Khánh xem bức ảnh một cô gái có cặp mắt đen nhánh, tinh nghịch, yêu đời với nụ cười hút hồn mà Cao Văn Khánh ngờ ngợ đã từng gặp đâu đó rồi?
Đúng! Đây là con gái quan Thượng thư triều Nguyễn Tôn Thất Đàn (cụ đã tham gia kháng chiến chống Pháp ngay từ ngày đầu). Qua sự mối lái của Lê Quang Đạo và nhiều đồng chí khác, mối duyên Cao Văn Khánh và Ngọc Toản dần nảy nở. Thuở ấy việc yêu đương phải có người làm mối. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, nhận giúp bạn, đến đặt vấn đề với gia đình Ngọc Toản. Khi ông Vũ gặp mẹ Ngọc Toản, ông thận trọng: “Thưa cụ, tôi có người bạn tốt, đánh giặc giỏi. Anh chưa có vợ vì bận đánh giặc. Nay muốn làm rể cụ. Xin cụ cho phép anh ấy được viết thư tìm hiểu chị Toản”.
Bà cụ thủng thẳng trả lời: “Tui kén rể, chứ đâu kén người đánh giặc giỏi. Con tui trưởng thành rồi, nên chỉ cần là người tốt và con tui ưng, thì tui đồng ý người đó”.
Ông Vũ ra về tấm tắc khen: “Tưởng cụ là vợ quan, lễ giáo phong kiến, nào ngờ bà cụ lại tân tiến như vậy!”.
Tuy đã yêu nhau, nhưng trong thâm tâm Ngọc Toản vẫn còn lấn cấn, trong nhật ký của mình bà viết: “…Tôi thấy anh ấy là mẫu người mà tôi mong muốn, sẽ làm bạn đường, sẽ đi suốt cuộc đời mà mình đã vạch hướng…Nhưng tôi còn đòi hỏi: Yêu là phải tôn trọng nhau, đừng làm cản trở những nguyện vọng cá nhân, sự bình đẳng giới. Tôi lo sợ nếu lập gia đình trong bước đường công tác, hoạt động, nhất là anh lớn tuổi, có thể sẽ gia trưởng. Nhưng là người khiêm tốn và chín chắn trong cuộc sống, anh hiểu và chinh phục tôi…”.
Phải đến tháng 12/1953, một sự kiện đã đến với Ngọc Toản khi bà đi tìm đơn vị mới. Bà lạc vào đúng chỗ đóng quân của Cao Văn Khánh, vừa từ Luang Prabang (Lào) trở về. Giữa núi rừng Tây Bắc hai người yêu nhau, bỗng tình cờ gặp nhau. Bà nghĩ, đúng là duyên số đã đưa họ đến với nhau: “Buổi gặp gỡ tình cờ đó ở giữa núi rừng Điện Biên càng làm tôi thấy rõ lòng mình đã thật sự yêu anh”.
Lúc chia tay, họ hẹn nhau ngày chiến thắng sẽ làm hôn lễ tại gia đình.
Chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, ngày càng nhiều thương binh chuyển đến giải phẫu. Đêm về cầm ngọn đèn tới chăm sóc từng thương binh, lòng Ngọc Toản xót xa thắt lại khi nghe tiếng thở thương binh mỗi lúc một yếu dần. Họ là những thanh niên còn quá trẻ mới 18 đôi mươi. Trong nỗi lo chung, còn có nỗi lo riêng cho người yêu – anh Cao Văn Khánh- song biết làm sao được!
Đám cưới có một không hai
Chiều 7/5/1954, chiến trường chấm dứt tiếng súng, nữ cứu thương Ngọc Toản được lệnh lên Mường Thanh nhận nhiệm vụ mới. Cô từ trong rừng sâu Tuần Giáo, khoác túi xách, 5 giờ chiều cuốc bộ vượt qua suối sâu vực thẳm, đèo Pha Đin cao chất ngất đi suốt đêm, mãi đến 2 giờ sáng hôm sau mới tới nơi. Do thông thạo tiếng Pháp, bà được phân công đến gặp và nói chuyện với một nữ tù binh Pháp duy nhất, vốn là nữ tiếp viên trên máy bay quân sự Pháp. Thể theo đề nghị của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Bác Hồ ra lệnh trả tự do cho nữ tù binh này. Nữ cứu thương Ngọc Toản đã giải thích cho nữ tù binh ấy về chính sách khoan hồng của Chính phủ ta và khuyên cô viết thư cảm ơn Bác Hồ. Đó là ngày 18/5, trước sinh nhật Bác một ngày.
Đến Mường Thanh làm nhiệm vụ, nhưng có lẽ do duyên phận, tình cờ nữ cứu thương được gặp lại người yêu – Đại đoàn phó Cao Văn Khánh.
Lạ lùng thay, giữa lúc khói lửa còn nóng bỏng, mùi đạn bom còn khét lẹt hai người tình cờ gặp nhau – nghẹn ngào không nói nên lời, hai người chỉ kịp thốt lên “Anh”! “Em”! Rồi tự nhiên nước mắt trào tuôn. Định nói với nhau bao điều, chưa kịp nói, thì Đại đoàn phó Cao Văn Khánh được lệnh đi tiếp quản trận địa Mường Thanh và trao trả tù binh.
Trang phục cưới của cô dâu chú rể là bộ quân phục cũ như mọi cán bộ chiến sỹ Điện Biên, nhưng “khán phòng” tràn ngập nụ cười tươi như hoa nở với những lời chúc phúc trong niềm vui thắng trận vẫn còn ngây ngất.
Ngay lúc đó, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Trần Lương đã “đọc” được tâm sự của hai người: “Chúng tôi biết anh chị yêu nhau lâu rồi, song vì chiến tranh liên miên, chưa có điều kiện tính chuyện trăm năm. Hiếm có dịp anh chị gặp nhau thế này, hay là làm hôn lễ tại đây. Chúng tôi sẽ đứng ra làm chủ hôn cho”.
Ngay giữa chiến trường còn ngổn ngang bom đạn, chưa xin phép mẹ, không có mặt gia đình, bạn bè, lại còn chưa sắm sửa quần áo…Dù là ở chiến trường, một đời người con gái đi lấy chồng là một sự kiện lớn trong đời! Sao vội vàng như vậy được?
Cao Văn Khánh và Ngọc Toản trên chiếc xe jeep
Nay nghe nói chuyện cưới xin, nhiều người tham gia ý kiến. Tất cả các chiến hữu của Cao Văn Khánh và Ngọc Toản ai cũng vun vào. Khi gặp tướng Lê Trọng Tấn, anh Khánh giới thiệu: “…Cô Toản, y sỹ”.
– Tôi có nghe tên, nhưng nay mới gặp. Và tôi cũng biết chỉ vài ngày nữa thôi, cô gái Huế dịu dàng, thùy mị này sẽ trở thành chị Khánh ở ngay trên đất Điện Biên lịch sử này. Tôi chúc mừng hạnh phúc anh chị” – Tướng Tấn nói.
Sau một ngày rưỡi suy nghĩ rất lung, đến chiều 21/5 bà đồng ý cưới. Sau này bà viết: “Cái chết và sự sống, cuộc đời và hạnh phúc của người lính Cụ Hồ, suy nghĩ về cuộc sống lúc đó thật tự nhiên và giản dị. Đã yêu nhau rồi thì cần gì phải câu nệ hình thức”.
Thế là quyết định ngày “lên xe”, anh em phân công nhau mỗi người một việc trang trí hầm De Castrie thành phòng cưới. Đám cưới không có hoa, nhưng bộ đội trang trí hầm với các dù Pháp đủ màu. Sắp xếp đủ chỗ ngồi cho hơn 40 đại biểu của “hai họ”. Bên nhà gái là các cán bộ Quân y, nhà trai là cán bộ của Đại đoàn 308.
Ngày 22/5/1954, lễ cưới được tổ chức trong hầm chỉ huy của bại tướng De Castrie, dưới ánh sáng đèn măng song. Tình cảm dâng trào khi hai anh chị sóng đôi dắt tay nhau vào hầm, trong sự hồ hởi, vỗ tay vang dội của tất cả các quan khách “hai họ” là những đồng đội còn sống sót ở chiến trường trở về.
Giây phút xúc động này, nhiều năm sau Cao Văn Khánh còn nhắc lại: “Em còn nhớ lúc anh và em âu yếm bước vào hầm chỉ huy sở De Castrie để làm lễ không ? Ông Trần Lương chủ hôn tuyên bố và ông Cầm, Chính ủy Mặt trận của Cục Quân y, đại diện đơn vị cô dâu phát biểu. Đám cưới có chụp ảnh, quay phim”.
Đám cưới là một sự kiện và là niềm vui chung của cán bộ chiến sỹ Điện Biên Phủ. Nhiều năm sau, những cựu chiến binh ở độ tuổi “cổ lai hy” vẫn còn nhắc đến vẻ đẹp lãng mạn đầy chất thơ của ngày vui ấy. Tình yêu nảy nở trên mặt trận giúp vị chỉ huy Đại đoàn chủ lực và người nữ cứu thương xinh đẹp nơi hỏa tuyến với đám cưới được tổ chức ngay tại sở chỉ huy của tướng giặc và chiến trường trở thành hôn trường, khi khói bom đạn còn chưa tan.
Đám cưới không có hoa, nhưng có kẹo ngoại nuga, thuốc là Philip, rượu Tây Napoléon là chiến lợi phẩm thu được, khách mang đến chung vui. Đám cưới có biểu diễn văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Chú rể hát bài “Bộ đội về làng”, cô dâu cất giọng “Em bé Mường La”.
Vợ chồng Cao Văn Khánh
Đám cưới không lên “xe hoa” nhưng lên xe tăng – đứng cạnh tháp pháo tăng nhìn ra chiến địa Mường Thanh tan hoang, Ngọc Toản khe khẽ thốt lên: “Bao nhiêu đồng đội đã hy sinh mà mình còn được sống”. Bà nhớ lại đã có hàng trăm thanh niên đã hy sinh trên tay bà ở bệnh viện dã chiến, những người hẳn chưa một lần được yêu!
Cô dâu, chú rể chụp một kiểu ảnh trên xe tăng đã tham chiến ở Điện Biên Phủ, Cao Văn Khánh nói: “Đó là kỷ niệm suốt đời của chúng ta, những ngày vui nhất của anh và em sau trận chiến thắng lịch sử, trong một khung cảnh lịch sử phải không em?” Niềm vui chiến thắng, xen kẽ tình cảm lứa đôi. Vui duyên mới khi nhiệm vụ đã hoàn thành. Giản dị mà vô cùng thân mật. Một đám cưới hiếm thấy, một tình yêu bền chặt suốt đời.