Nghệ thuật trang trí cây nêu của người Cor, tri thức may và mặc áo dài Huế, lễ hội bơi chải làng Tiếu Mai, nghề làm nhang ở Tây Ninh được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Việc được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia sẽ tạo tiền đề để các địa phương có thể xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO đưa vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. |
Nghệ thuật trang trí cây nêu của người Cor
Ngày 12/8, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) Quảng Ngãi cho biết, Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL vừa ký quyết định công nhận nghệ thuật trang trí cây nêu của người Cor (H.Trà Bồng, Quảng Ngãi) trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Nghệ thuật trang trí cây nêu của đồng bào dân tộc Cor (Quảng Ngãi) tồn tại và phát triển gắn liền với lễ hội ăn trâu từ hàng ngàn năm trước, được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện bản sắc văn hóa, mang đậm dấu ấn của cộng đồng dân tộc Cor.
Cây nêu của người Cor thường có 3 loại ứng với mỗi sinh hoạt văn hóa xã hội khác nhau. Nhưng cao nhất là cây nêu được dựng vào ngày Tết ngã rạ (cao khoảng 10 – 15 m).
Nghi thức trong lễ hội của đồng bào Cor bên cây nêu. (Ảnh: Hoàng Tâm/Báo Văn hoá) |
Phần thân cây nêu được trang trí hoa văn 2 màu đen, đỏ tượng trưng cho trời và đất. Thân cây nêu còn được treo những bộ Gu (bằng gỗ có vẽ hoặc điêu khắc những hình ảnh hay họa tiết mang yếu tố tâm linh của người Cor) và mâm thờ.
Có thể coi đây là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tạo hình và hội họa dân gian đặc sắc. Cùng với bộ Gu, cây nêu còn được treo những con chim chèo bẻo gỗ. Trên đỉnh cây nêu cũng có gắn một con chim chèo bẻo. Đây là hình tượng một loài chim luôn bắt sâu, châu chấu, cào cào để bảo vệ cây lúa. Người dân tộc Cor coi chim chèo bẻo là chim trời do thần linh phái xuống giúp họ. Chính vì thế người Cor không bao giờ săn bắt hay ăn chim chèo bẻo.
Mỗi khi dựng cây nêu, người Cor phải làm lễ cúng với những nghi thức rất thiêng liêng. Cây nêu là cầu nối tinh thần của người Cor với thần linh. Có những bài cúng trong những bước khác nhau khi ghép nối cây nêu hoặc khi treo những bộ Gu. Nghi lễ dựng cây nêu chỉ có ở người Cor. Đó chính là di sản văn hóa được tôn vinh từ năm 2015.
Tri thức may và mặc áo dài Huế
Theo TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chính thức ghi danh “Tri thức may và mặc áo dài Huế” là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Ông Phan Thanh Hải cho biết, đây chính là thành quả của công tác triển khai Đề án “Huế – Kinh đô Áo dài Việt Nam” với mực tiêu bảo tồn và phát huy giá trị tri thức may, mặc áo dài Huế và là tiền đề để triển khai có hiệu quả hoạt động quảng bá, tôn vinh áo dài Huế, thúc đẩy kinh tế, du lịch phát triển, khẳng định áo dài Huế trong cộng đồng quốc tế, hướng đến phát triển thương hiệu Huế – Kinh đô Áo dài.
Các nghệ nhân và thợ may áo dài chăm chút từng công đoạn như cắt, may, luôn tà, và làm nút, biến chiếc áo dài thành một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng giá trị văn hóa Huế. (Nguồn: Người Hà Nội) |
Chiếc áo dài xứ Huế đã đi qua một chặng đường dài hình thành và phát triển với nhiều thăng trầm. Từ chiếc áo dài xứ Bắc xưa xẻ giữa thân trước thành hai vạt không có khuy, đến chiếc áo dài Đàng Trong mà vạt được xẻ thành tà áo.
Áo dài Huế hình thành từ chính tâm hồn và nét thẩm mỹ của người Huế, mang trên đó những nét duyên dáng riêng có của mảnh đất Đàng Trong. Có lẽ cũng kể từ đó, phụ nữ Huế luôn coi áo dài như một trang phục thường ngày chứ không chỉ dùng trong những dịp lễ, Tết hay sự kiện đặc biệt nào đó và tùy theo điều kiện kinh tế mà ai cũng có vài bộ áo dài dành cho riêng mình.
Chiếc áo dài Huế được thêu may tinh tế và sắc sảo bởi đôi bàn tay khéo léo của những con người xứ Huế. Từ lâu đã trở thành một món quà lưu niệm văn hóa, tinh thần độc đáo không thể thiếu cho những ai mỗi khi đến Huế.
Trong các kỳ Festival Huế, không thể không nhắc đến Lễ hội áo dài – một trong những chương trình chính thức, mang đậm chất văn hóa Huế đã góp phần làm phong phú và đa dạng chương trình lễ hội. Đến với lễ hội áo dài, du khách sẽ được chiêm ngưỡng các bộ sưu tập áo dài của các nhà thiết kế nổi tiếng. Ở đó, tà áo dài của người phụ nữ Huế nói riêng và áo dài Việt Nam nói chung, từ quốc phục được biến hóa qua bàn tay tài năng của người nghệ sĩ để trở thành những bộ sưu tập mang dáng vẻ cổ kính đến hiện đại trên các chất liệu vô cùng phong phú và đa dạng.
Theo ông Phan Thanh Hải, hiện nay, áo dài Huế đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo. Những chiếc áo dài được cắt may, thêu thùa tinh tế và sắc sảo bởi đôi tay tài hoa của người thợ xứ Huế đã để lại bao ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách trong và ngoài nước, góp phần bảo tồn và phát huy một nét văn hóa đặc sắc, quý giá của dân tộc.
Việc công nhận này là điều kiện, cơ sở quan trọng để Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp tục hoàn thiện hồ sơ “Tri thức may và mặc áo dài Huế” nhằm đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia xem xét trình Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng hồ sơ “Tri thức may và mặc áo dài Huế” để đệ trình UNESCO đưa vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Lễ hội bơi chải làng Tiếu Mai
Làng Tiếu Mai xưa, tức làng Mai ngày nay có cách đây 1.500 năm, là một làng Việt cổ nằm kề bên bờ Bắc sông Cầu (Như Nguyệt). Làng Tiếu Mai ngày nay bao gồm 3 thôn: Mai Thượng, Mai Trung và Thắng Lợi. Người già trong làng kể rằng, khi giặc Tống đến xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt dựng lên chiến tuyến sông Như Nguyệt để ngăn chặn quân thù.
Những ngày đó, dân làng Tiếu Mai thường xuyên dùng thuyền vận chuyển giúp đỡ quân Lý Thường Kiệt qua sông tạo thế bất ngờ đánh giặc, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt vào ngày 17/2/1077, quân Tống thất bại nặng nề khiến cho chúng “bạt vía kinh hồn” phải rút quân về nước.
Những cái tên như ngã ba sông Xà, gò Xác, nghè Ngũ Giáp đã trở thành địa danh lịch sử. Tại ngã ba Xà, điểm hội tụ giữa sông Cầu và sông Cà Lồ, đây cũng chính là nơi Lý Thường Kiệt đọc bài thơ nổi tiếng Nam quốc sơn hà – bản Tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
Các đội bơi tranh tài tại Lễ hội bơi chải làng Tiếu Mai. (Nguồn: Bắc Giang) |
Lễ hội bơi chải bắt nguồn từ tục diễn xướng chiến thắng Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt chống quân xâm lược nhà Tống. Từ đó cứ 5 năm một lần, vào ngày 10/3 (âm lịch) người dân làng Mai tưng bừng mở hội kỷ niệm chiến công oanh liệt của vị tướng tài ba Lý Thường Kiệt.
Thông thường, Hội bơi chải kéo dài trong 3 ngày với nhiều hoạt động tín ngưỡng, trò chơi dân gian hấp dẫn đã trở thành lễ hội truyền thống của cả một vùng cư dân ven bờ sông Cầu. Đến hội người xem như được chứng kiến âm hưởng dậy sóng hào hùng của cha ông từ ngàn xưa vọng về. Quá khứ, hiện tại như hòa quyện vào nhau, tô thắm thêm truyền thống yêu nước, tinh thần thượng võ của người dân hai bên bờ Như Nguyệt.
Đến nay, lễ hội bơi chải còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc tôn vinh những người có công với tổ tiên qua những nghi thức trang trọng thể hiện tinh thần thượng võ của nhân dân vùng Kinh Bắc.
Với những ý nghĩa to lớn về mặt văn hóa, lịch sử, truyền thống, có sức lan tỏa mạnh mẽ, Lễ hội bơi chải làng Tiếu Mai vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đây là nền tảng quan trọng để lễ hội tiếp tục được bảo tồn, mở rộng về quy mô, từ đó phát huy hơn nữa giá trị trong đời sống xã hội, góp phần giáo dục tinh thần thượng võ, truyền thống yêu nước trong các thế hệ.
Nghề làm nhang ở Tây Ninh
Mới đây, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng ký quyết định đưa nghề thủ công truyền thống nghề làm nhang tỉnh Tây Ninh vào danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Nghề làm nhang ở Tây Ninh là một trong những nghề thủ công truyền thống tồn tại từ xưa đến nay, thể hiện đậm nét đặc trưng văn hóa – tâm linh của cư dân địa phương.
Theo hồ sơ di sản, nghề truyền thống ở Tây Ninh tập trung ở thị xã Hòa Thành, huyện Dương Minh Châu, thị xã Trảng Bàng, huyện Gò Dầu, TP. Tây Ninh và huyện Tân Biên.
Cây nhang thành phẩm không có màu vàng ươm như thường thấy, thay vào đó là màu vàng, nâu của lá và hoa khô. (Nguồn: ZNews) |
Nhang ở Tây Ninh chỉ có 2 màu đặc trưng là vàng và nâu. Theo đó, để làm ra những cây nhang thì người ta sẽ đi thu gom lá gòn về phơi khô, rồi đem xay nhuyễn thành bột. Sau đó đem đi trộn với nước và cho thêm bột quế hoặc bột trầm vào để tạo mùi thơm.
Chính vì vậy, mùi hương của nhang không nồng đậm mà cực kỳ nhẹ nhàng, dễ chịu. Ngoài những vấn đề về kỹ thuật như đã nêu, thì người làm nhang ở Tây Ninh còn có những quan niệm, ý nghĩa biểu trưng trong văn hóa rất đặc sắc qua kích thước của cây nhang, từ đó thể hiện ước mong của họ về một cuộc sống an vui, sung túc.
Trong nếp sống của người Việt, hương là biểu tượng của sự thiêng liêng, thành kính, là cầu nối giữa thế giới thực tại với chốn u linh thần bí.
Đặc biệt hơn, Tây Ninh được mệnh danh là “vùng đất Thánh” của đạo Cao Đài – nơi có số lượng tín đồ đông đảo nhất cả nước. Vì vậy, hơn trăm năm qua, tại Tây Ninh, nghề làm nhang truyền thống của làng vẫn tồn tại và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình.
Nghề làm nhang ở Tây Ninh còn thể hiện rất rõ đặc thù gốc tích nông nghiệp như dụng cụ, nguyên liệu, giá trị sử dụng. Những sản phẩm từ nghề truyền thống này có vai trò quan trọng trong việc phục vụ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội không chỉ của người dân Tây Ninh nói riêng mà cả cộng đồng nói chung.
Trải qua quá trình dài hình thành và phát triển, dù qua các hình thái kinh tế xã hội hay các phương thức sản xuất khác nhau, thì nghề làm nhang ở Tây Ninh vẫn tồn tại một cách bền vững và trở thành một trong những làng nghề làm nhang nổi tiếng nhất ở Nam Bộ.
Như vậy, cùng với nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ tỉnh Tây Ninh, lễ Kỳ yên đình Gia Lộc, múa trống Chhay-dăm, nghề làm bánh tráng phơi sương Trảng Bàng, lễ vía Bà Linh Sơn Thánh Mẫu (núi Bà Đen), lễ hội Quan lớn Trà Vong (Tân Biên), nghệ thuật chế biến món ăn chay và nghề thủ công truyền thống làm muối ớt, nghề làm nhang là di sản văn hoá thứ 9 của tỉnh Tây Ninh được công nhận Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.
Nguồn: https://baoquocte.vn/bo-van-hoa-the-thao-va-du-lich-cong-nhan-them-4-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-282381.html