(NLĐO)- Những cái ôm xúc động sau nhiều năm gặp lại, những mái đầu bạc trắng, chân đi không vững nhưng vẫn nhớ như in những kỷ niệm một thời hoa lửa…
Hướng tới kỷ niệm 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, ngày 11-11, Sở GD-ĐT TP HCM đã tổ chức buổi họp mặt những nhà giáo đi B, nhà giáo nội đô nhằm ôn lại những kỷ niệm một thời gian khổ, hết mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xúc động câu chuyện vượt dãy Trường Sơn đi cứu nước
Ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM, cho biết trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hàng vạn nhà giáo, sinh viên miền Bắc theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đã lên đường vào Nam chiến đấu, cùng với các nhà giáo ở miền Nam xây dựng nền móng cho sự nghiệp giáo dục cách mạng.
Dù trong khói lửa chiến tranh nhưng những ngôi trường, lớp học được dựng tạm bằng cây rừng, vách lá vẫn mọc lên. Ngày đêm vẫn vang vọng tiếng ê a học chữ, ráp vần như thách thức bom đạn của kẻ địch. Thầy giáo cũng là người chiến sĩ, vượt khó khăn để gieo chữ… Dù trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh, trong vô vàn hiểm nguy của bom đạn, biệt kích, sự càn quét ngày đêm của kẻ địch và bọn tay sai nhưng nền giáo dục cách mạng vẫn phát triển, ươm mầm cho biết bao thế hệ.
Sau chiến thắng 30-4-1975, những thầy giáo, cô giáo đi B có người quay về quê hương, có người ở lại gắn bó với TP HCM, với ngành GD-ĐT TP, tiếp tục sự nghiệp trồng người… Dù ở cương vị nào, các nhà giáo – chiến sĩ vẫn luôn tâm huyết, cống hiến xây dựng thành phố và đất nước, phát triển giáo dục, vun đắp tài năng cho các thế hệ học sinh.
“Cho phép tôi thay mặt các thế hệ nhà giáo trưởng thành sau ngày miền Nam giải phóng 30-4-1975 và đại diện ngành GD-ĐT TP tri ân các thầy cô đã vượt Trường Sơn để đến với miền Nam và các nhà giáo nội đô yêu nước, hoạt động trong lòng địch. Không chỉ xây dựng phong trào giáo dục, cầm súng chiến đấu bảo vệ trường lớp, thầy cô đã góp sức mình cùng viết nên trang sử oanh liệt trong công cuộc chống Mỹ cứu nước, thống nhất non sông…”- ông Hiếu bày tỏ.
Là nhân chứng sống của thế hệ nhà giáo đi B, ông Trịnh Hồng Sơn (năm nay đã 90 tuổi) vẫn còn nhớ như in những năm tháng gian khổ. Ông Sơn hồi tưởng: “Đoàn chúng tôi đi B năm 1964, đây là đoàn đi B đông nhất. Ngày 22-12-1964, chúng tôi làm lễ xuất quân. Tại đây, chúng tôi rất vinh dự được đồng chí Lê Duẩn lên thăm. Đồng chí Lê Duẩn căn dặn chúng tôi phải hành quân thật nhanh. Vì thế, chúng tôi chỉ mất hơn 2 tháng thì vào đến chiến trường”.
Ông Sơn cho biết đoàn đi B phải vượt qua khó khăn, gian khổ, hiểm nguy rình rập trên mọi bước đường. Dọc đường, nhiều người đã hy sinh, thế nhưng mọi người đều sẵn sàng vượt qua để vào miền Nam chiến đấu. “Chúng tôi vượt Trường Sơn được vì lúc đó chỉ suy nghĩ là làm sao phải vào miền Nam, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” – ông xúc động.
Cô Ngô Ngọc Dung – một nhà giáo nội đô – nhớ lại: “Riêng nhóm nội đô của chúng tôi là một dạng gian khổ khác. Chúng tôi phải sống trong lòng địch, hoạt động tại khu vực Sài Gòn – Gia Định. Ta và địch cài xen nhau, phải sống như thế nào đây? Giảng dạy cho học trò như thế nào, truyền tải lòng yêu nước cho học trò như thế nào? Đấy là những điều mà chúng tôi trăn trở. Để làm được điều đó, ngoài những điều tâm huyết, chúng tôi còn có rất nhiều khó khăn. Môi trường dù không khốc liệt như anh chị đi B nhưng rất nguy hiểm, dễ bị địch bắt, tù đày. Tuy nhiên, lúc đó, chúng tôi chỉ có tâm niệm như lời bài hát: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng, nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương, nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây trắng, là người tôi sẽ chết cho quê hương”…
Tri ân sâu sắc những người đã sống một thời hoa lửa
Phát biểu tại buổi gặp mặt, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Hồ Hải bày tỏ sự kính trọng và lòng tri ân sâu sắc đối với những người đã sống một thời hoa lửa, hiến dâng tuổi thanh xuân tươi đẹp cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp trồng người cao quý.
Theo ông Nguyễn Hồ Hải, nhắc đến cụm từ “Nhà giáo đi B” hay “Nhà giáo nội đô” thì nhiều người không hiểu, nhất là các bạn trẻ, nhưng thực sự đó là một thời đầy hy sinh gian khổ và hết sức vẻ vang. Đối tượng đi B lúc đầu là lực lượng vũ trang nhưng sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập (tháng 12-1960) và phong trào cách mạng chuyển sang giai đoạn mới thì đối tượng đi B được mở rộng. Từ kỹ sư, bác sĩ đến nhà giáo, văn nghệ sĩ, phóng viên báo chí… đều được huy động vào Nam chiến đấu và công tác. Việc đi B hoàn toàn bí mật, do Ủy ban Thống nhất Trung ương quản lý. Cán bộ đi B phải gửi lại tư trang, hồ sơ, kỷ vật và toàn bộ sơ yếu lý lịch, phiếu cán bộ, thẻ Đảng, thẻ Đoàn, ảnh gia đình, nhật ký.
Trong giai đoạn 1961 – 1973, đã có 10 chuyến đi B với hơn 2.700 thầy cô rời bục giảng các trường phổ thông, đại học ở Hà Nội và các tỉnh, thành miền Bắc vượt Trường Sơn vào miền Nam. Được phân công về các chiến trường trọng yếu, từ miền Trung – Tây Nguyên đến Đông – Tây Nam Bộ, họ đã trở thành những “nhà giáo cầm súng”.
Các thầy cô khi ấy nhiều người còn rất trẻ, vừa dạy học, tham gia gây dựng nền giáo dục giải phóng trong các chiến khu, vùng căn cứ, vừa tăng gia sản xuất và trực tiếp cầm súng chiến đấu. Họ thường xuyên đối mặt với B52 rải thảm, chất độc hóa học và những trận càn ác liệt của địch với muôn vàn khó khăn, hiểm nguy khó lường. Nhiều người đã anh dũng hy sinh hoặc để lại một phần thân thể trên chiến trường miền Nam. Thậm chí, có thầy cô đã ngã xuống ngay trước thời khắc 30-4-1975 lịch sử.
Còn “Nhà giáo nội đô” không phải là người cầm súng chiến đấu mà là những thầy giáo, cô giáo hoạt động âm thầm trong các đô thị miền Nam. Đây là lực lượng góp phần rất quan trọng vào việc truyền bá tư tưởng cách mạng, khích lệ lòng yêu nước và đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc ngay giữa lòng địch, một bộ phận tham gia phát triển nền giáo dục giải phóng ở các căn cứ lõm và vùng địch hậu. Những bài giảng của các nhà giáo nội đô đã khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về lịch sử và truyền thống dân tộc.
Phần lớn phong trào đấu tranh của nhân dân, học sinh, sinh viên Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đều có sự tham gia tích cực của các nhà giáo nội đô. Nhiều người bị địch phát hiện, khủng bố gắt gao buộc phải thay tên đổi họ, sống dưới nhiều vỏ bọc khác nhau để kiên trì bám trụ hoạt động và tiếp tục giảng dạy. Nhiều người bị địch bắt, bị tù đày nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người trí thức cách mạng, không hề nao núng.
Sau khi chiến tranh kết thúc, thầy cô trở về cuộc sống đời thường, tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, không ngừng truyền đạt tri thức và kinh nghiệm quý báu cho thế hệ trẻ… Dù hoạt động lĩnh vực nào, các thầy cô vẫn luôn mang trong mình đức hy sinh và nghị lực phi thường của thời kỳ kháng chiến gian khổ mà anh dũng…
Buổi gặp mặt hôm nay có những thầy cô đã bước qua tuổi 90, phần lớn là trên dưới 80, chỉ có một số ít trên dưới 70 tuổi – cũng là lớp người “xưa nay hiếm”. Tất cả đều có chung tình yêu Tổ quốc, khát vọng hòa bình, thống nhất non sông và sự cống hiến, tận tụy đối với sự nghiệp trồng người cao quý. Họ là những tấm gương sáng về phẩm chất nhà giáo cách mạng, góp phần làm nên trang sử vẻ vang cho nền giáo dục nước nhà.
Từ sau ngày giải phóng, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân TP HCM đã cố gắng làm tất cả những gì có thể để tri ân, ghi ơn những người con ưu tú từ mọi miền đất nước đã hy sinh xương máu và để lại một phần thân thể nơi mảnh đất này, góp phần viết nên thiên anh hùng ca bất hủ Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định – TP HCM, trong đó có các thầy cô giáo đi B và thầy cô giáo hoạt động nội đô. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn một số việc chưa giải quyết hết; thành phố sẽ ghi nhận và giải quyết thấu đáo trong thời gian tới.
Theo Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Nguyễn Hồ Hải, cuộc họp mặt truyền thống các nhà giáo đi B và nhà giáo nội đô càng có ý nghĩa hơn khi chỉ còn hơn 5 tháng nữa là cả đất nước kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong gần nửa thế kỷ qua, đất nước nói chung, TP HCM nói riêng đã thay da đổi thịt từng ngày; nhân dân đã được hưởng nhiều thành quả tốt đẹp mà độc lập, tự do mang lại. Để có những điều đó, những đóng góp công sức, máu xương của thế hệ đi trước không bao giờ bị quên lãng.
“Chúng tôi, thế hệ sau, luôn biết ơn và trân trọng những gì các thầy cô đã làm cho đất nước. Những bài học quý giá về ý chí, nghị lực, sự tận tụy và lòng nhiệt huyết của các thầy cô đã và đang là động lực giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống và công tác. Chúng tôi luôn ghi nhớ và xin hứa sẽ làm hết mình để cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chung tay xây dựng TP HCM ngày càng văn minh, hiện đại, nghĩa tình” – ông Nguyễn Hồ Hải nhấn mạnh.
Nguồn: https://nld.com.vn/xuc-dong-cuoc-gap-mat-cua-nhung-nha-giao-di-b-nha-giao-noi-do-196241111163744042.htm