Dự án Thủy điện Bản Vẽ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2003 và đi vào vận hành khai thác từ năm 2010. Tuy nhiên, hiện nay đang còn một số tồn tại, vướng mắc liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ về đất trên cốt ngập đối với dự án này.
Theo quy định hiện nay, các hộ dân có phần diện tích đất trên cốt ngập lòng hồ dự án thủy điện đủ điều kiện để lập hồ sơ bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4, Điều 5, Quyết định số 64/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đặc thù di dân, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện. Cụ thể, tại Khoản 3 quy định, hộ tái định cư có diện tích đất sản xuất nằm ngoài hành lang bảo vệ hồ chứa theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ, chuyển đến điểm tái định cư xa nơi sản xuất cũ từ 5 km trở lên, bị thu hồi đất thì được bồi thường về đất. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất.
Còn tại Khoản 4 quy định, hộ tái định cư và hộ gia đình bị ảnh hưởng có diện tích đất sản xuất nằm ngoài hành lang bảo vệ hồ chứa theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ, có khoảng cách từ nơi ở đến khu đất sản xuất dưới 5 km nhưng không có đường vào khu đất sản xuất đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương để quyết định thu hồi đất và bồi thường về đất.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 23 Quyết định số 64/2014/QĐ-TTg, thì các dự án, hạng mục đã chi trả xong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và những dự án, hạng mục đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước thời điểm Quyết định này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng theo Quyết định này.
Theo đó, Dự án Thủy điện Bản Vẽ đã được Tập đoàn Điện lực Việt Nam phê duyệt Quy hoạch chi tiết công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Thủy điện Bản Vẽ tại Quyết định số 1291/QĐ-EVN-QLXD-KTDT ngày 19/5/2005 và được Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) thống nhất Quy định tạm thời về bồi thường, di dân tái định cư Dự án Thủy điện Bản Lả (nay là Bản Vẽ) tại Văn bản số 1174/CV-NLĐK ngày 16/3/2005, trong đó, chỉ được bồi thường về đất đối với các hộ dân trong phạm vi ảnh hưởng của dự án (phạm vi ngập lòng hồ, dưới cao trình 200m). Vì vậy, đối với các hộ dân có phần diện tích đất trên cốt ngập lòng hồ Dự án Thủy điện Bản Vẽ không đủ điều kiện lập hồ sơ bồi thường, hỗ trợ về đất.
Nhưng trên thực tế, khi triển khai theo chủ trương của dự án, những hộ dân có đất ở và đất sản xuất nông nghiệp nằm trên cốt ngập lòng hồ thủy điện đều phải di dời cùng với cộng đồng làng bản, không thể ở lại, cũng như quay trở lại sản xuất trên phần đất này. Hơn nữa, đến nay, công tác lập hồ sơ bồi thường, hỗ trợ về đất đối với Dự án Thủy điện Bản Vẽ chưa hoàn thành, UBND huyện Tương Dương chưa phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ về đất để làm cơ sở bố trí kinh phí chi trả cho nhân dân, do đó, cần thiết phải thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng về đất trên cốt ngập để có cơ sở bù trừ chênh lệch nơi đi và nơi đến tương tự như các hộ dân thuộc diện tái định cư trong phạm vi ngập lòng hồ.
Mặt khác, phần lớn diện tích đất trên cốt ngập của các hộ dân nằm trong quy hoạch rừng phòng hộ theo Quyết định số 48/2014/QĐ-UBND ngày 15/8/2014 của UBND tỉnh Nghệ An về việc điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng, nhưng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các hộ dân. Vì vậy, hiện nay một số hộ dân vẫn quay trở lại nơi cũ (khu vực lòng hồ Thủy điện Bản Vẽ) để làm ăn, sản xuất, gây ảnh hưởng đến cuộc sống người dân và ảnh hưởng cho địa phương trong công tác quản lý đất đai, cũng như vấn đề đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn.
Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho người dân tái định cư Dự án Thủy điện Bản Vẽ, cũng như để thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, an ninh, trật tự trên địa bàn, UBND tỉnh Nghệ An có văn bản đề nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép được lập phương án thực hiện bồi thường, hỗ trợ về đất trên cốt ngập Dự án Thủy điện Bản Vẽ theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 5, Quyết định số 64/2014/QĐ-TTg.