Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) đã có văn bản gửi Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cùng một số cơ quan chức năng, báo cáo và đề xuất tháo gỡ vướng mắc thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với dịch vụ thư tín dụng (L/C).
Hiệp hội cho biết, về quy định nộp thuế GTGT đối với dịch vụ L/C, căn cứ quy định của Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn Luật thuế GTGT thì dịch vụ cấp tín dụng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, theo đó từ năm 2011 đến nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) không thu thuế GTGT đối với các loại phí liên quan đến cam kết bảo lãnh thanh toán của ngân hàng; chỉ thu thuế GTGT đối với các loại phí liên quan đến dịch vụ thanh toán L/C.
Tuy nhiên, năm 2019, Kiểm toán Nhà nước có ý kiến cho rằng: căn cứ Khoản 15 Điều 4 Luật các TCTD 2010 định nghĩa cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản bao gồm L/C, nên việc các TCTD không kê khai và nộp thuế GTGT đối với dịch vụ L/C là không đúng quy định của Luật thuế GTGT.
Tổng cục Thuế sau đó đã ban hành công văn đề nghị Cục thuế địa phương rà soát kê khai nộp thuế của các TCTD trên địa bàn.
Tuy nhiên, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng việc từ năm 2011 đến nay, các TCTD không nộp thuế GTGT đối với phí L/C có tính chất cấp tín dụng không phải là lỗi của các TCTD, các TCTD không cố tình vi phạm, không cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Bởi vì bản chất dịch vụ L/C không thay đổi trước và sau ngày 1/1/2011 (thời điểm có hiệu lực của của Luật các TCTD năm 2010). Sau khi Luật các TCTD có hiệu lực, Bộ Tài chính cũng không sửa đổi công văn hướng dẫn việc nộp thuế GTGT; Tổng Cục thuế vẫn giữ nguyên hướng dẫn chính sách thuế GTGT đối với phí L/C.
Theo VNBA, bản chất thuế GTGT là thuế gián thu, trường hợp phải nộp bổ sung thuế phát sinh từ năm 2011, TCTD phải liên hệ và thu lại từ khách hàng, khách hàng sẽ không đồng ý vì lý do biểu phí ngân hàng đã niêm yết các mục phí L/C liên quan cấp tín dụng không chịu thuế GTGT. Hơn nữa, nhiều khách hàng đã hoàn tất việc lập báo cáo tài chính, kiểm toán hàng năm.
Ngoài ra, từ năm 2011 đến nay có nhiều khách hàng không còn quan hệ giao dịch với TCTD hoặc đã giải thể/phá sản/không còn tồn tại nên TCTD không thể thu thuế bổ sung từ khách hàng được nên phải ghi nhận và theo dõi phải thu trên sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Trong trường hợp không thu được thuế bổ sung từ khách hàng thì chi phí nộp thuế GTGT có được trừ khi tính thuế TNDN của từng năm không, hay đưa vào lợi nhuận giữ lại. Việc này ảnh hưởng đến trình bày lại Báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong năm tài khóa trước đây của TCTD cũng như tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh, các chỉ số an toàn, giá cổ phiếu, cổ tức đã chia cho cổ đông…của các năm, tờ khai thuế và việc phân phối lợi nhuận đã chốt, đặc biệt các ngân hàng có trên 50% vốn Nhà nước không được hạch toán các chi phí không được trừ khi tính thuế TNDN theo quy định tại Thông tư 16/2018/TT-BTC.
Về điều chỉnh hóa đơn và khai bổ sung hồ sơ khai thuế, khi thực hiện truy thu thuế GTGT (nếu có) để nộp vào Ngân sách nhà nước, TCTD và doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc phát hành hóa đơn điều chỉnh thuế GTGT, điều chỉnh lại về số liệu đã kê khai, nộp thuế, khấu trừ thuế…;
Về phía các TCTD, đặc thù hệ thống nhiều chi nhánh, phòng giao dịch trải dài khắp địa bàn cả nước, trong khoảng thời gian từ 2011 đến nay đã có nhiều sự thay đổi, chia tách, sáp nhập đơn vị, số lượng giao dịch lớn, phát sinh trong thời gian dài, liên quan đến nhiều loại tiền tệ. Vì vậy sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức cũng như nguồn lực cho việc rà soát, sao kê, bóc tách, tính toán và tổng hợp số liệu với nguồn dữ liệu rất lớn từ năm 2011 đến nay.
Nguyên tắc của thuế GTGT là khi các TCTD kê khai và nộp thuế GTGT đầu ra, các khách hàng doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp nhập khẩu) sẽ được kê khai, khấu trừ/hoàn thuế GTGT đầu vào tương ứng. Theo đó việc truy thu dẫn đến phát sinh một loạt các thủ tục, chi phí của toàn xã hội phải điều chỉnh hóa đơn, số liệu về kê khai, nộp thuế, khấu trừ/hoàn thuế, tăng vận hành của toàn bộ các doanh nghiệp, TCTD và cơ quan thuế.
Sau khi có Văn bản số 324/TB-VPCP, cơ quan thuế tại một số địa phương đã yêu cầu các TCTD về nộp thuế GTGT, dù chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể từ Tổng thuế – Bộ Tài chính. Điều này đã và đang gây hoang mang, lo lắng cho các chi nhánh của TCTD về việc thực thi các chính sách của nhà nước. Bên cạnh đó, để phòng ngừa rủi ro, hiện nay một số TCTD đã chủ động tuân thủ và ban hành biểu phí thu VAT của khách hàng. Tuy nhiên, việc thu thuế hiện nay có khá nhiều bất cập do một số nhóm mặt hàng không chịu thuế GTGT khi bán ra nên khi ngân hàng thu thêm, chi phí của khách hàng đội lên rất nhiều. Ngoài ra, việc thu thuế GTGT không đồng bộ giữa các ngân hàng hoặc có ngân hàng thu có ngân hàng chưa thu, dẫn đến chưa có sự thống nhất trong toàn hệ thống, một số khách hàng phản ứng quyết liệt yêu cầu phải có văn bản chính thức của cơ quan nhà nước …
Về tiền chậm nộp thuế và phạt vi phạm hành chính về thuế, đối với các chi phí xử phạt phát sinh bao gồm tiền phạt chậm nộp và phạt vi phạm hành chính: Do việc truy thu thuế GTGT phát sinh từ năm 2011 đến nay, chi phí phạt chậm nộp phát sinh rất lớn (có thể gấp đôi số tiền thuế GTGT phải nộp), đồng thời theo trình bày ở trên, đây hoàn toàn không phải lỗi của các TCTD, các TCTD không trốn tránh nghĩa vụ thuế đối với L/C. Bên cạnh đó, các TCTD gặp vướng mắc trong việc hạch toán nguồn nộp thuế đối với tiền phạt chậm nộp và phạt xử lý vi phạm hành chính (nếu có).
Ngoài ra, việc truy thu và phạt chậm nộp các NHTM với số tiền lớn, mà nguyên nhân không phải do lỗi của các ngân hàng gây ra, sẽ là không công bằng cho các ngân hàng, nhất là các ngân hàng từ trước đến nay luôn chấp hành và tuân thủ đúng các quy định pháp luật; đồng thời chính sách này nếu buộc phải thực hiện sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của hệ thống ngân hàng nước ta, đồng thời gây mất niềm tin vào chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng như môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Căn cứ vào những vướng mắc, bất cập nêu trên và ý kiến kiến nghị của các TCTD, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề xuất Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ cho phép các TCTD thực hiện sau 3 tháng kể từ khi có hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính do các TCTD cần thời gian để rà soát cụ thể, chi tiết.
Hạch toán số tiền thuế GTGT đối với hoạt động L/C truy thu từ năm 2011 đến nay vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN do khoản thuế này là nghĩa vụ của Khách hàng mà TCTD không có cơ sở/không thể thu hồi lại được từ Khách hàng.
Không phải lập hóa đơn điều chỉnh/thay thế đối với các hóa đơn TCTD đã lập sai thuế suất thuế GTGT
Cho phép TCTD kê khai và nộp thuế GTGT tập trung tại Trụ sở chính, không phải kê khai và nộp thuế về Cục thuế địa phương. Trường hợp cần điều tiết về Cục thuế địa phương, Tổng cục thuế thực hiện điều tiết về cục thuế địa phương.
Không xử phạt chậm nộp thuế GTGT cũng như phạt vi phạm hành chính do đây không phải là lỗi của các TCTD.
Chỉ đạo Cục thuế địa phương không yêu cầu các TCTD kê khai điều chỉnh và nộp thuế bổ sung cho đến khi có hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế để thực hiện thống nhất trên toàn quốc.
T.M