Vĩnh Phúc nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm 24,20C. Hiện nay, tỉnh có diện tích tự nhiên 1.236 km2, phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp Hà Nội, phía Đông giáp 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh – Hà Nội, dân số năm 2020 là 1.171.232 người, có 7 dân tộc anh, em sinh sống trên địa bàn tỉnh gồm: Kinh, Sán Dìu, Nùng, Dao, Cao Lan, Mường. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính: 2 thành phố, 7 huyện; 136 xã, phường, thị trấn. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính: Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh; thành phố Phúc Yên và 7 huyện là Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch và Sông Lô.
- ĐỊA CHẤT
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phân bố sáu nhóm đá khác nhau:
– Đá biến chất cao: phân bố ở khu vực bắc Hương Canh, trung tâm các huyện Lập Thạch, Tam Dương, tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam, gồm đá gneis giàu plagioclas, biotit, silimanit, đôi chỗ gặp quartzit chứa mica hệ tầng Chiêm Hóa.
– Đá trầm tích lục nguyên màu đỏ: phân bố ở phía đông nam Tam Đảo, giáp Sóc Sơn (Hà Nội), bao gồm cát kết, đá phiến sét màu đỏ nâu, phớt lục, phớt tím xen kẽ với bột kết, đá phiến sét phớt đỏ hệ tầng Nà Khuất.
– Đá trầm tích lục nguyên có chứa than: phân bố thành dải hẹp ở khu vực xã Đạo Trù (Tam Đảo), thành phần gồm cuội kết, cát kết, đá phiến sét, sét than và lớp than đá; phần trên gồm cát kết, bột kết, đá phiến sét màu xám vàng, xám sẫm thuộc hệ tầng Văn Lãng. Các trầm tích Neogen lộ ra ở khu vực tây nam huyện Lập Thạch, dọc rìa tây nam huyện Tam Đảo, nằm kẹp giữa các hệ thống đứt gãy sông Chảy và sông Lô, bao gồm cát kết ở phần dưới chuyển lên bột kết và sét kết màu xám đen.
– Trầm tích bở rời: trầm tích Đệ Tứ phân bố rộng rãi ở phía nam tỉnh, chạy dọc thung lũng sông Hồng, sông Lô, bao gồm cuội, sỏi, cát, sét vàng, sét bột phong hóa laterit màu sắc loang lổ; sét màu xám xanh, xám vàng phong hóa laterit yếu; kaolin, sét xanh, sét đen của hệ tầng Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình.
– Đá phun trào: phân bố ở phần đông bắc tỉnh, chiếm toàn bộ dãy núi Tam Đảo, bao gồm tướng phun trào thực sự: đá ryolit đaxit, ryolit porphyr có ban tinh thạch anh, felspat, plagioclas; tướng á phun trào: xuyên cắt các loại đá phun trào, gồm ryolit porphyr có ban tinh lớn, ít felspat dạng đai mạch nhỏ; tướng phun nổ: các thấu kính từ chứa ít mảnh dăm, bom núi lửa của hệ tầng Tam Đảo. Các loại đá phun trào Tam Đảo chủ yếu là đá ryolit, một số là đaxit.
– Đá magma xâm nhập: thuộc phức hệ sông Chảy, phân bố ở phía tây bắc huyện Lập Thạch, bao gồm đá granodiorit, granit hạt từ vừa đến lớn, granit 2 mica, granit muscovit hạt vừa đến nhỏ, và các mạch aplit, pegmatit. Đặc điểm của các loại đá này là giàu nhôm, giàu kiềm. Các loại đá magma xâm nhập nằm trong hệ thống đứt gãy phương tây bắc – đông nam, gồm hệ thống đứt gãy sông Chảy và sông Lô.
- ĐỊA HÌNH
Phía bắc Vĩnh Phúc có dãy núi Tam Đảo kéo dài từ xã Đạo Trù (Tam Đảo) – điểm cực bắc của tỉnh đến xã Ngọc Thanh (Phúc Yên) – điểm cực đông của tỉnh với chiều dài trên 30 km, phía tây nam được bao bọc bởi sông Hồng và sông Lô, tạo nên dạng địa hình thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và chia tỉnh thành ba vùng có địa hình đặc trưng: đồng bằng, gò đồi, núi thấp và trung bình.
– Địa hình đồng bằng: gồm 76 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 46.800 ha. Vùng đồng bằng bao gồm vùng phù sa cũ và phù sa mới. Vùng phù sa cũ chủ yếu do phù sa của các hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông Lô, sông Đáy bồi đắp nên, diện tích vùng này khá rộng, gồm phía bắc các huyện Yên Lạc, Vĩnh Tường và phía nam các huyện Tam Dương, Bình Xuyên, được hình thành cùng thời kỳ hình thành châu thổ sông Hồng (Kỷ Đệ Tứ – Thống Pleitoxen). Vùng phù sa mới dọc theo các con sông thuộc các huyện Sông Lô, Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc phía nam Bình Xuyên, được hình thành vào thời kỳ Đệ Tứ – Thống Holoxen. Đất đai vùng đồng bằng được phù sa sông Hồng bồi đắp nên rất màu mỡ, là điều kiện lý tưởng để phát triển kinh tế nông nghiệp thâm canh.
– Địa hình đồi: gồm 33 xã, phường và thị trấn, với diện tích tự nhiên là 24.900 ha. Đây là vùng thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả và hoa màu, kết hợp với chăn nuôi gia súc, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chăn nuôi theo hướng tăng sản xuất hàng hóa thực phẩm.
– Địa hình núi thấp và trung bình: có diện tích tự nhiên là 56.300 ha, chiếm 46,3% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình vùng núi phức tạp bị chia cắt, có nhiều sông suối. Đây là một trong những ưu thế của Vĩnh Phúc so với các tỉnh quanh Hà Nội, vì có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu du lịch sinh thái. Vùng núi Tam Đảo có diện tích rừng quốc gia là 15.753 ha.
- KHÍ HẬU
Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đặc điểm khí hậu của vùng trung du miền núi phía Bắc.
– Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình năm là 23,5 – 250C, nhiệt độ cao nhất là 38,50C, thấp nhất là 20C. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên có sự chênh lệch khá lớn về nhiệt độ giữa vùng núi và đồng bằng. Vùng Tam Đảo, có độ cao 1.000 m so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình năm là 18,40C.
– Lượng mưa: lượng mưa trung bình năm đạt 1.400 – 1.600mm, trong đó, lượng mưa bình quân cả năm của vùng đồng bằng và trung du đo được tại trạm Vĩnh Yên là 1.323,8mm, vùng núi tại trạm Tam Đảo là 2.140 mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô (từ tháng 11 năm nay đến tháng 4 năm sau) chỉ chiếm 20% tổng lượng mưa trong năm.
– Số giờ nắng: tổng số giờ nắng bình quân trong năm là 1.400 – 1.800 giờ. Tháng có nhiều giờ nắng nhất là tháng 6 và tháng 7; tháng có ít giờ nắng nhất là tháng 3.
– Chế độ gió: trong năm có hai loại gió chính là gió đông nam, thổi từ tháng 4 đến tháng 9; và gió đông bắc, thổi từ tháng 10 năm nay đến tháng 3 năm sau.
– Độ ẩm không khí: độ ẩm bình quân cả năm là 83%. Nhìn chung, độ ẩm các tháng trong năm không chênh lệch nhiều giữa vùng núi với vùng trung du và đồng bằng.
– Lượng bốc hơi: lượng bốc hơi bình quân trong năm là 1.040 mm. Từ tháng 4 đến tháng 9, lượng bốc hơi bình quân trong một tháng là 107,58 mm; từ tháng 10 năm nay đến tháng 3 năm sau là 71,72 mm.
- THỦY VĂN
4.1. Thủy văn mặt
Vĩnh Phúc có bốn con sông chính chảy qua, gồm: sông Hồng, sông Lô, sông Đáy và sông Cà Lồ. Lượng nước hằng năm của các sông này rất lớn, có thể cung cấp nước tưới cho 38.200 ha đất canh tác nông nghiệp, được chia làm hai hệ thống sông chính: hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Cà Lồ.
Hệ thống sông Hồng: gồm sông Hồng với hai nhánh lớn là sông Đà ở bờ bên phải và sông Lô ở bờ bên trái, cùng với hai nhánh của sông Lô là sông Chảy ở Tuyên Quang và sông Đáy ở Vĩnh Phúc.
– Sông Hồng: chảy qua địa phận Vĩnh Phúc từ ngã ba Bạch Hạc đến hết xã Trung Hà, huyện Yên Lạc, dài 30 km. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong cả năm là 3.860 m3/s, lớn gấp bốn lần lưu lượng sông Thao, gấp ba lần lưu lượng sông Lô và gấp đôi lưu lượng sông Đà. Lưu lượng dòng chảy thấp nhất vào mùa khô là 1.870 m3/s. Lưu lượng dòng chảy trung bình trong mùa mưa lũ là 8.000 m3/s, lưu lượng lớn nhất là 18.000 m3/s. Mực nước trung bình là 9,57 m, hằng năm lên xuống thất thường, nhất là về mùa mưa với những cơn lũ đột ngột, nước dâng lên nhanh chóng, có khi tới 3 m trong 24 giờ. Mực nước đỉnh lũ thường cao hơn mực nước mùa kiệt trên dưới 9 m (trong cơn lũ lịch sử năm 1971, dao động tới 11,68 m). Mùa khô, hệ thống sông Hồng là nguồn cấp nước chính cho các trạm bơm vùng đồng ruộng xung quanh, với hàm lượng phù sa cao, tối đa có thể lên tới 14 kg/m3, lượng phù sa lớn (mỗi năm có thể lên tới 130 triệu tấn), chất lượng phù sa tốt, nước sông chứa nhiều chất khoáng. Chính lượng phù sa dồi dào từ sông Hồng đã bồi đắp cho Vĩnh Phúc một dải đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ. Hiện nay, sông vẫn tiếp tục bồi phù sa cho đồng bãi ven bờ và cho cả ruộng trong đê qua những con ngòi thông ra sông.
– Sông Lô: chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Yên (huyện Sông Lô) qua xã Việt Xuân (huyện Vĩnh Tường) đến ngã ba Bạch Hạc thì đổ vào sông Hồng, có chiều dài là 34 km. Lưu lượng dòng chảy bình quân năm 1996 là 1.213 m3/s, về mùa mưa lên tới 3.230 m3/s, cao nhất năm 1996 là 6.560 m3/s; biên độ dao động mực nước trung bình là 6 m (năm 1971 chênh nhau tới 11,7 m). Hàm lượng phù sa của sông Lô ít hơn sông Hồng. Vào mùa mưa lũ, lượng phù sa là 2.310 kg/m3, mùa cạn, nước sông trong xanh, hầu như không mang phù sa. Sông Lô còn tiếp thêm nước cho hệ thống thủy lợi Liễn Sơn qua trạm bơm Bạch Hạc.
– Sông Đáy: dài 41,5 km, chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn (huyện Lập Thạch) ở bờ phải và xã Yên Dương (huyện Tam Đảo) ở bờ trái, chảy giữa huyện Lập Thạch và hai huyện Tam Đảo, Vĩnh Tường, rồi đổ vào sông Lô, giữa xã Sơn Đông (huyện Lập Thạch) và xã Việt Xuân (huyện Vĩnh Tường). Sông Đáy có lưu lượng bình quân là 23 m3/s; lưu lượng cao nhất là 833 m3/s; mùa khô kiệt, lưu lượng chỉ còn 4 m3/s. Sông Đáy cũng có lưu lượng phù sa như sông Lô (2,44 kg/m3) nhưng vai trò quan trọng nhất của sông Đáy là cung cấp nước cho hệ thống thủy nông Liễn Sơn dài 175 km, tưới cho 14.000 ha ruộng của các huyện Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên, Mê Linh.
– Sông Cà Lồ: là một phân lưu của sông Hồng. Nó tách ra khỏi sông Hồng ở xã Trung Hà (huyện Yên Lạc), dài 86 km theo hướng tây nam – đông bắc, giữa hai huyện Bình Xuyên và Mê Linh, vòng quanh thị xã Phúc Yên rồi theo đường vòng cung rộng phía nam hai huyện Kim Anh và Đa Phúc cũ, đổ vào sông Cầu ở thôn Lương Phúc, xã Việt Long (nay thuộc huyện Sóc Sơn – Hà Nội). Nguồn nước sông Cà Lồ ngày nay chủ yếu là nước các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam Đảo, núi Sóc Sơn, lưu lượng bình quân chỉ 30 m3/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3/s. Tác dụng chính của sông là tiêu úng vào mùa mưa lũ. Riêng khúc sông đầu nguồn cũ từ Vạn Yên đến sông Cánh đã được đắp chặn lại ở gần thôn Đại Lợi (Phúc Yên), dài gần 20 km, biến thành một hồ chứa nước lớn để tưới ruộng và nuôi cá.
– Sông Phan: bắt nguồn từ núi Tam Đảo, thuộc địa phận các xã Hoàng Hoa (huyện Tam Dương), Tam Quan, Hợp Châu (huyện Tam Đảo), chảy qua các xã Duy Phiên, Hoàng Lâu (huyện Tam Dương), Kim Xá, Yên Lập, Lũng Hòa, Thổ Tang (huyện Vĩnh Tường) theo hướng đông bắc – tây nam; vòng sang hướng đông nam qua các xã Vũ Di, Vân Xuân (huyện Vĩnh Tường) rồi theo hướng tây nam – đông bắc qua các xã Tề Lỗ, Đồng Văn, Đồng Cương (huyện Yên Lạc) đổ vào đầm Vạc (thành phố Vĩnh Yên), qua xã Quất Lưu chảy về Hương Canh (huyện Bình Xuyên), qua xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên), nhập với sông Bá Hạ rồi đổ vào sông Cà Lồ ở địa phận xã Nam Viêm (thành phố Phúc Yên).
– Sông Cầu Bòn: bắt nguồn từ Thác Bạc trên núi Tam Đảo, đổ xuống làng Hà, xã Hồ Sơn hợp với suối Xạ Hương, suối Bàn Long thuộc xã Minh Quang (huyện Tam Đảo), chảy từ phía bắc xuống phía nam qua các xã Gia Khánh, Hương Sơn, Tam Hợp rồi đổ vào sông Cánh, xã Tam Hợp, đều thuộc huyện Bình Xuyên. Sông Phan và sông Cầu Bòn hình thành nên một đường vòng cung, hai đầu nối vào sườn Tam Đảo. Vào mùa khô, mực nước hai con sông này rất thấp. Nhưng về mùa mưa, nước từ Tam Đảo trút xuống, không tiêu kịp vào sông Cà Lồ, thường ứ lại ở Đầm Vạc và làm ngập úng cả một vùng ruộng giữa hai huyện Yên Lạc, Bình Xuyên.
– Sông Bá Hạ: bắt nguồn từ suối Nhảy Nhót giữa xã Trung Mỹ (huyện Bình Xuyên) và xã Ngọc Thanh (thị xã Phúc Yên), chảy giữa xã Bá Hiến (huyện Bình Xuyên) và xã Cao Minh (thị xã Phúc Yên) đến hết địa phận xã Bá Hiến, đầu xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên), nhập với sông Cánh, chảy về sông Cà Lồ.
– Suối Cheo Meo: bắt nguồn từ xã Minh Trí (Sóc Sơn – Hà Nội), dài 11,5 km, đổ vào sông Cà Lồ ở xã Nam Viêm (Phúc Yên). Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có nhiều đầm, hồ lớn, trong đó có tới 94 hồ lớn nhỏ với khả năng cung cấp nước tưới cho 33.500 ha đất canh tác nông nghiệp. Các đầm, hồ thiên tạo là: đầm Vạc (Vĩnh Yên), đầm Rưng, vực Xanh, vực Quảng Cư, đầm Kiên Cương (Vĩnh Tường), đầm Tam Hồng, đầm Cốc Lâm (Yên Lạc), hồ Đá Ngang, hồ Khuôn, hồ Suối Sải (Sông Lô), đầm Riệu (Phúc Yên)… Các đầm, hồ nhân tạo gồm: hồ Đại Lải (Phúc Yên), hồ Xạ Hương (Tam Đảo), hồ Làng Hà (Tam Đảo), hồ Vân Trục (Lập Thạch), hồ Bò Lạc (Sông Lô)…
4.2. Thủy văn ngầm
Đặc điểm của các tầng chứa nước trong lãnh thổ Vĩnh Phúc:
– Tầng chứa nước Proterozoi: được cấu tạo bởi các loại đá biến chất cao, chủ yếu là đá phiến gơnai, quaczit, amphibolit. Nước ở tầng này trong, chất lượng tốt, lưu lượng nhỏ. Tuy nhiên, ở những đới phá hủy, đập vỡ thì lưu lượng nước có thể đạt tới trên 5 lít/s. Tầng phá hủy của nó có nước chất lượng tốt, có thể làm nước giải khát.
– Tầng chứa nước Mezozoi: được cấu tạo bởi các loại đá phun trào Triat giữa và muộn cùng các thành tạo chứa than của hệ tầng Văn Lãng. Chất lượng nước không đều, có nơi bị nhiễm sắt, lưu lượng nước nhỏ.
– Tầng chứa nước Kainozoi: đây là tầng chứa nước quan trọng. Tuy nhiên, do vỏ phong hóa mỏng nên lưu lượng nước không lớn, đa phần chỉ sâu 4 – 5 m đã gặp đá gốc. Tầng chứa nước đứt gãy trong các đới phá hủy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.
– Tầng chứa nước đứt gãy: được hình thành trên các đứt gãy, nước tập trung với tiềm năng lớn, chất lượng tốt.
Nhìn chung, nguồn nước ngầm phân bố không đều, chủ yếu ở vùng đồng bằng phía nam của tỉnh. Chất lượng nước ngầm khá tốt; tuy nhiên, tại một số nơi có nhiều nhà máy như các khu công nghiệp thì nước ngầm có dấu hiệu bị ô nhiễm, một vài chỉ tiêu như sắt, mangan cao cần phải xử lý.
Tại Vĩnh Phúc, trữ lượng nước ngầm tự nhiên gồm trữ lượng động tự nhiên và trữ lượng tĩnh tự nhiên. Trong đó, trữ lượngtĩnh tự nhiên (thể tích nước có trong tầng chứa nước) bao gồm: trữ lượng tĩnh phần đàn hồi và trữ lượng tĩnh phần động lực. Cho đến thời điểm hiện tại, tỉnh Vĩnh Phúc chỉ có thể tính trữ lượng tĩnh đàn hồi cho tầng Pleistocen. Theo kết quả tìm kiếm, thăm dò và đánh giá nước dưới đất ở khu vực đồng bằng tỉnh Vĩnh Phúc, trữ lượng tĩnh đàn hồi tính được khoảng 111,2 triệu m3.
Trữ lượng động tự nhiên là lượng nước chảy qua mặt cắt của tầng chứa nước trong một đơn vị thời gian. Ở Vĩnh Phúc, có thể phân ra hai vùng để tính trữ lượng động tự nhiên như sau:
Vùng đồi núi: chủ yếu phân bố các tầng chứa nước khe nứt. Do địa hình phân cắt mạnh bởi các hệ thống sông suối và mạng lưới xâm thực địa phương, nước dưới đất trao đổi mạnh, thoát hoàn toàn ra sông, suối.
Vùng đồng bằng: tại đây tồn tại một vài tầng chứa nước, song tầng chứa nước Pleistocen là tầng giàu nước và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế.
Trên diện tích 770 km2 vùng đồi núi, các tầng chứa nước khe nứt Vĩnh Phúc có trữ lượng động tự nhiên là 137.356 m3/ngày.
Trên diện tích 600 km2 vùng đồng bằng, tầng chứa nước trầm tích có trữ lượng động tự nhiên là 210.470 m3/ngày.
Trữ lượng động tự nhiên nước dưới đất toàn tỉnh là 347.826 m3/ngày.
Cũng theo tài liệu cơ sở dữ liệu tài nguyên nước của tỉnh Vĩnh Phúc, trữ lượng tự nhiên (gồm trữ lượng động và trữ lượng tĩnh) ở các huyện đồng bằng tỉnh Vĩnh Phúc là 85,8 triệu m3. Trữ lượng động tự nhiên ở các huyện miền núi của tỉnh là 238.282 m3/ngày đêm. Trữ lượng động tự nhiên ở các huyện đồng bằng là 276.910 m3/ngày đêm.
Từ lâu, nước dưới đất đã được khai thác để phục vụ ăn uống và sinh hoạt trong tỉnh. Hiện nay, 80% số hộ dân đang sử dụng nguồn nước ngầm làm nước sinh hoạt, ăn uống. Nước được khai thác từ các giếng khoan, giếng đào.
Nước ngầm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đang được khai thác dưới 2 hệ thống chính:
– Hệ thống khai thác tập trung: là các công trình cấp nước tập trung cho vài trăm đến vài nghìn hộ sử dụng bằng khai thác nước dưới đất qua xử lý lắng lọc và được bơm đến từng hộ. Việc khai thác này do các nhà máy của Công ty Cấp thoát nước cấp cho dân cư thành phố, các thị xã, thị trấn và công trình khai thác nước tập trung của một xã. Hiện nay, Vĩnh Phúc có 2 nhà máy nước lớn là: nhà máy nước Vĩnh Yên (do Công ty Cấp thoát nước môi trường số I Vĩnh Phúc quản lý), công suất cấp nước 16.000 m3/ngày đêm với 17 giếng khoan công suất 12.000 m3/ngày đêm với 5 giếng khoan, trong đó, nước cấp cho sản xuất công nghiệp là 3.174 m3/ngày đêm.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 35 công trình cấp nước tập trung, trong đó có 14 công trình đang hoạt động. Các công trình tiêu biểu có thể kể đến như: công trình cấp nước sạch tại Thanh Lãng, Hương Canh (Bình Xuyên); Sơn Đông, Vân Trục, Quang Sơn (Lập Thạch); Quang Yên (Sông Lô); Bồ Lý, Yên Dương, Đạo Trù (Tam Đảo); thị trấn Yên Lạc (Yên Lạc); hệ thống cấp nước sạch xã Nam Viêm và dự án cải tạo, mở rộng hệ thống cấp nước tại phường Phúc Thắng (Phúc Yên).
– Hệ thống khai thác nhỏ: là phương thức khai thác nước bằng các giếng đào, giếng khoan lấy bơm tay, bơm điện phục vụ cho từng hộ riêng lẻ hoặc nhóm hộ. Hầu như toàn bộ các gia đình ở khu vực nông thôn chưa được cung cấp nước từ hệ thống khai thác tập trung mà đã tự động khoan, đào các giếng để lấy nước cho sinh hoạt hằng ngày.
Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan, tổ chức cũng sử dụng phương thức khai thác này để phục vụ sinh hoạt và sản xuất kinh doanh. Theo số liệu thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường Vĩnh Phúc, lượng nước khai thác tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh hiện nay khoảng 9.405 m3/ngày đêm, trong đó tập trung nhiều tại huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường.
Chất lượng nước ngầm ở các khu vực trên địa bàn tỉnh có sự khác nhau, cụ thể:
– Tại các khu đô thị và khu công nghiệp (thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên): chỉ số pH, Cl, Cu, Zn, Mn, Fe tại khu vực đô thị tỉnh Vĩnh Phúc đều ở trong giới hạn cho phép hoặc dưới giới hạn cho phép rất nhiều. Điều đó chứng tỏ, công tác quản lý môi trường tại khu vực đô thị của tỉnh đang ngày càng tốt lên.
– Tại khu vực nông thôn và làng nghề (huyện Vĩnh Tường, huyện Yên Lạc, huyện Tam Dương): nước ngầm có dấu hiệu bị ô nhiễm và có xu hướng tăng dần theo thời gian.
Một số chỉ tiêu ô nhiễm năm 2004 vượt quá Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) như chỉ số Cu của huyện Yên Lạc; chỉ số Mn của huyện Yên Lạc, Tam Dương; chỉ số pH của huyện Tam Dương. Tuy nhiên, các chỉ số này đã có xu hướng giảm về mức cho phép trong năm 2006.
Bên cạnh đó, nhiều chỉ số năm 2004 ở mức cho phép nhưng đến năm 2006 lại thay đổi theo hướng tiêu cực, vượt gấp nhiều lần QCVN như chỉ số Zn, Cu của Tam Dương.
Điều đáng tiếc là chất Cianua (CN) rất độc hại đã được phát hiện ở cả 3 huyện vào năm 2004. May mắn là tới năm 2006, hàm lượng chất này trong nước ngầm đã giảm đáng kể.
Chất lượng nước ngầm tại Vĩnh Tường, Yên Lạc có tính axit, chỉ số pH thấp hơn QCVN 09:2008/BTNMT.
Mặc dù theo Báo cáo Quan trắc hiện trạng môi trường hàng năm của tỉnh Vĩnh Phúc, chất lượng nước ngầm của tỉnh hiện nay vẫn ở mức sử dụng tốt và chưa bị ô nhiễm nặng nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh vẫn cần phải đo lường, kiểm tra chất lượng nước thường xuyên và có hướng sử dụng, quản lý nguồn nước ngầm một cách thích hợp.
Tại các đô thị lớn như thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên, các vùng phát triển công nghiệp như Bình Xuyên, Tam Dương, nước ngầm có thể bị tác động mạnh do ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt và công nghiệp trong khu vực nếu không có biện pháp kiểm soát hiệu quả.
Tại khu vực nông thôn, do điều kiện cấp nước tập trung chưa phát triển nên chất lượng nước ngầm sẽ bị tác động mạnh do gia tăng nhu cầu sử dụng nước dẫn tới việc phát triển mạnh các giếng khoan quy mô nhỏ. Việc khoan giếng không được kiểm soát và quản lý, các giếng khoan không có nước nếu không được trám lấp đảm bảo kỹ thuật sẽ dẫn tới nguy cơ nhiễm bẩn nguồn nước ngầm từ các chất thải bề mặt rất cao. Đặc biệt là tại các khu làng nghề tập trung và các vùng phát triển chăn nuôi quy mô lớn.
Nước ngầm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc được phủ một tầng phong hóa bở rời, nguồn cấp vật liệu cho nước ngầm chủ yếu từ nước mặt. Do vậy, các nguồn thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt) gây ô nhiễm cho nước mặt như đã nói trên chính là các nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, đặc biệt là tại các vùng nông thôn chủ yếu dùng nước ngầm ở tầng nông.
- THỔ NHƯỠNG
Do đặc điểm địa hình, khí hậu, thủy văn như vậy nên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã hình thành các nhóm đất khác nhau, bao gồm:
– Nhóm đất phù sa: diện tích 29.830,15 ha, chiếm 21,75% tổng diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh, được phân bố ở tất cả các huyện, chủ yếu là Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Bình Xuyên. Diện tích đất phù sa trên địa hình thấp trũng bị ngập nước quanh năm, sau một thời gian dài tích sét sẽ diễn ra quá trình khử mạnh mẽ trong điều kiện yếm khí, hình thành tầng đất glây điển hình.
– Nhóm đất cát: có thành phần cơ giới thô, hàm lượng hạt cát trên 70% ở hầu hết các tầng đất. Nhóm này được hình thành chủ yếu do sự bồi tụ, lắng đọng các sản phẩm thô bị rửa trôi từ vùng đồi núi.
– Nhóm đất loang lổ: có một tầng chứa không dưới 25% đá ong non và dày trên 15 cm, ở độ sâu từ 0 – 50 cm hoặc đến độ sâu 125 cm khi nằm dưới một tầng bạc màu. Đất loang lổ có diện tích 11.887,3 ha, chiếm 8,67% diện tích đất tự nhiên.
– Nhóm đất xám: gồm đất phù sa cũ có sản phẩm feralitic, đất dốc tụ ven đồi. Đất xám có diện tích 42.435,27 ha, chiếm 30,9% diện tích đất tự nhiên.
– Nhóm đất tầng mỏng: thuộc tầng đất đồi, có độ dày tầng đất nhỏ hơn 30 cm, bên dưới là đá cứng liên tục hoặc tầng cứng rắn hoặc có tỷ lệ đất mịn trên 10% về trọng lượng trong tầng đất có độ sâu từ 0 – 75 cm. Đất này có diện tích 1.264,78 ha.
- TÀI NGUYÊN RỪNG
Theo số liệu của Chi cục Kiểm lâm Vĩnh Phúc, tính đến ngày 31-12-2011, diện tích có rừng toàn tỉnh là 28.312,7 ha, độ che phủ rừng đạt 22,4%.
Diện tích rừng tự nhiên của tỉnh là 9.358,8 ha, chiếm 32,81%, tập trung chủ yếu ở huyện Tam Đảo với diện tích 6.978,3 ha, chiếm 74,49% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; đây cũng là nơi có Vườn Quốc gia Tam Đảo. Hiện tại, phần lớn rừng tự nhiên do Ban Quản lý rừng của tỉnh giám sát, kiểm tra và quản lý.
Bên cạnh đó, tỉnh còn có 18.953,9 ha diện tích rừng trồng, chiếm 67%, trong đó, diện tích rừng mới trồng là 977,7 ha, chiếm 3,43%. Tam Đảo cũng là huyện có diện tích rừng trồng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong toàn tỉnh, đạt 28,34%. Tiếp đến là huyện Lập Thạch (tương đương 20,33%), thị xã Phúc Yên (19,01%), huyện Sông Lô (16,78%). Thấp nhất là thành phố Vĩnh Yên, chỉ có 153,3 ha, chiếm 0,007%. Phần lớn rừng trồng do hộ gia đình sở hữu và quản lý, với diện tích 9.161,8 ha (47,76%). Ban Quản lý rừng Vĩnh Phúc quản lý 3.899,2 ha (20,33%). Số còn lại do các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị vũ trang hoặc các tổ chức kinh tế khác khai thác và sử dụng.
Vĩnh Phúc có các kiểu rừng sau:
– Rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp: phân bố ở độ cao 700 m. Loại rừng này chiếm phần lớn dãy Tam Đảo với những loài cây có giá trị kinh tế cao như chò chỉ (choera chinensis), giổi (michelia Ital), re (cinnamomum ital)… Quần hệ thực vật kiểu rừng này gồm nhiều tầng, tán kín với những loài cây lá rộng thường xanh hợp thành. Kiểu rừng này đang bị tàn phá nặng nề.
– Rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình: phân bố ở độ cao 800 m trở lên (chỉ có ở dãy Tam Đảo). Quần hệ thực vật là các loài họ dầu (dipterocarpaceae), họ re (lauraceae), dẻ (fagceae), họ chè (theaceae), họ mộc lan (magnoliaceae), họ sau sau (hamamelidaceae). Ngoài ra, ở độ cao trên 1.000 m xuất hiện một số loài thuộc ngành hạt trần như thông (dacrycarpus), pơmu (fokienia hodginsii), thông tre (podocarpus neriifolius), thông yến tử (podorcarpus pilgeri), kim giao (nageia fleuryi)…
– Rừng lùn trên đỉnh núi: là một kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi trung bình, được hình thành trên các đỉnh dông dốc, hay các đỉnh núi cao đất xấu, nhiều nắng gió, mây mù. Vì vậy, cây cối ở đây thường thấp, bé và phát triển chậm.
– Rừng tre nứa: mọc xen kẽ trong các kiểu rừng khác. Các loại tiêu biểu là vầu, sặt gai ở độ cao trên 800 m; giang ở độ cao 500 – 800 m; nứa ở độ cao dưới 500 m.
– Rừng phục hồi sau nương rẫy: kiểu rừng này thường có ở vùng đệm của Vườn Quốc gia Tam Đảo.
– Rừng trồng: gồm các loại rừng thông, rừng bạch đàn, rừng keo và rừng lá rộng, được trồng ở độ cao 200 – 600 m. Rừng trồng được bao phủ với diện tích khá lớn ở phía tây bắc của huyện Lập Thạch, Sông Lô. Ở khu vực thung lũng, sông suối và phần phía nam tỉnh còn trồng cây lương thực, rau màu. Ngoài ra, trong vùng còn có các kiểu trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh sau khai thác.
- THỰC VẬT VÀ ĐỘNG VẬT
7.1. Thực vật
Thảm thực vật ở Vĩnh Phúc thể hiện rõ trong nền cảnh chung của rừng nhiệt đới gió mùa. Đặc biệt Vĩnh Phúc còn có Vườn Quốc gia Tam Đảo; gần đây, qua khảo sát bước đầu, các nhà thực vật học đã thống kê được trong Vườn có 1.436 loài, thuộc 741 chi trong 219 họ của 6 ngành thực vật. Trong đó có 58 loài mang gen quý hiếm và 68 loài đặc hữu có tên trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới1. Dựa vào sinh cảnh phân bố, có thể chia hệ thực vật ở Tam Đảo thành các loại: rảng cỏ, cây bụi, các loài cây gỗ trên núi đất và núi đá. Theo giá trị sử dụng, có thể chia hệ thực vật này thành các nhóm: cây cho tinh dầu, cây làm rau ăn, cây làm cảnh, cây cho gỗ, cây dược liệu, cây cho tinh bột, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm cây cho gỗ và cây dược liệu. Ở Tam Đảo còn có nhiều loài thực vật lần đầu tiên được thu thập và mô tả ở Việt Nam.
7.2. Động vật
Hệ động vật ở Tam Đảo rất phong phú về thành phần loài, với khoảng 1.141 loài, thuộc 150 họ của 39 bộ. Trong đó, 64 loài có giá trị khoa học cần bảo tồn, 16 loài đặc hữu, 18 loài có tên trong sách đỏ thế giới và 8 loài cấm buôn bán.
Trong đó, lớp lưỡng cư có 19 loài, đặc biệt, loài cá cóc Tam Đảo thuộc những loài động vật quý hiếm được đưa vào sách đỏ. Lớp bò sát có 46 loài, trong đó tắc kè, kỳ đà, thằn lằn là những loài có số lượng lớn. Lớp chim nhiều hơn cả, có tới 158 loài, trong đó có nhiều loại quý như gà lôi trắng, gà tiền. Lớp thú có 58 loài; các loài lớn như gấu, hổ, báo…; các loài nhỏ như cầy, sóc, chuột, hươu, hoẵng…; một số có giá trị khoa học cao như cheo cheo, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch…
Trong các loài động vật ở rừng Tam Đảo, có 47 loài được xem là quý hiếm, trong đó có loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt. Vườn Quốc gia Tam Đảo là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, có giá trị to lớn trong bảo vệ môi trường, điều tiết và cung cấp nước, phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch, nghỉ dưỡng, cung cấp lâm sản, dược liệu. Với độ che phủ rừng chiếm 90% diện tích, có thể coi Vườn Quốc gia Tam Đảo là kho dự trữ các nguồn gen động, thực vật quý hiếm của nước ta, và là điểm du lịch hấp dẫn.
- KHOÁNG SẢN
Có thể phân loại khoáng sản ở Vĩnh Phúc thành các nhóm sau:
8.1. Nhóm khoáng sản cháy
– Than antraxit: có ở xã Đạo Trù (Tam Đảo), xác định chiều dài vỉa 20 m, bề dày vỉa 0,5 – 0,8 m, trữ lượng khoảng 1.000 tấn, có nhiệt lượng 7.000 – 8.000 kcal.
– Than nâu: địa tầng chứa than nâu ở các xã Bạch Lưu, Đồng Thịnh (Sông Lô). Vỉa than Bạch Lưu dày 0,8 m, dài 10 m, chưa được thăm dò và đánh giá. Vỉa than Đồng Thịnh dày 0,4 – 0,5 m, nằm thoải dưới chiều sâu 5 – 7 m, phủ trên là sét kết và bột kết, có trữ lượng khoảng vài ngàn tấn. Than nâu có nhiệt lượng 6.000 – 8.000 kcal.
– Than bùn: Vĩnh Phúc có nhiều điểm than bùn, trong đó đáng kể là hai vùng: xã Văn Quán (Lập Thạch) và các xã Hoàng Đan, Hoàng Lâu (Tam Dương).
Than bùn Văn Quán có trữ lượng ước khoảng hàng trăm ngàn mét khối, có thể sử dụng làm chất đốt và phân bón.
Than bùn Hoàng Lâu phổ biến trên hàng chục hecta ở vùng đầm lầy và đầm chiêm trũng. Chiều dày lớp than từ 1 – 2 m, có chỗ tới 3 m, dưới lớp phủ 0,5 – 1 m, trữ lượng ước khoảng 500.000 m3. Địa tầng chứa than là cát sét và bột của trầm tích Đệ Tứ hệ tầng Hà Nội, than Humit chưa phân hủy hết cây cối.
8.2. Nhóm khoáng sản kim loại
– Barit: chủ yếu gặp dưới dạng tảng lăn, có nguồn gốc nhiệt dịch, đi với chì, kẽm, gồm ba dải mạch ở Đạo Trù (Tam Đảo).
Dải mạch Vĩnh Ninh: dài 10 m, dày 0,2 – 0,3m, chủ yếu là galen, xphalerit kèm barit và thạch anh.
Dải mạch Suối Son: dài 40m, rộng 0,5 – 1m. Dải mạch này phát triển không liên tục. Quặng là galen, đi kèm limolit và barit, đá vây quanh là serinit và acgilit.
Dải mạch xóm Tân Lập: có nhiều nhánh, dài 30 – 50m, dày 0,5 – 1m.
– Đồng: mới phát hiện được các điểm khoáng nghèo quặng là chancopyrit được đi kèm với pirit, pirotin. Có thể kể đến các điểm khoáng hóa ở Suối Son, Đồng Giếng (Đạo Trù), Đồng Bùa (Tam Quan), Hợp Châu, Bàn Long, Minh Quang thuộc huyện Tam Đảo.
– Vàng: dọc theo đứt gãy tây nam Tam Đảo có nhiều mạch thạch anh được xác định cùng tuổi với khoáng hóa vàng và những vành phân tán vàng sa khoáng ở Đạo Trù, Minh Quang (Tam Đảo), Thanh Lanh (Bình Xuyên), Thanh Lộc (Phúc Yên).
– Thiếc: có trong sa khoáng ở xóm Giếng (Đạo Trù), suối Đền Cả (Đại Đình). Các nhà địa chất dự báo ở vùng núi Tam Đảo còn có một loại thiếc thớ gỗ, giàu tiềm năng nhưng chưa phát hiện được.
– Sắt: có hai dải đáng kể là: Dải sắt Bàn Giản (Lập Thạch): khoáng vật chứa sắt là manhetit, có chiều dài 200 m, rộng 50 m, phần trên là mũ sắt và đá ong, nhân dân khai thác làm gạch táng ong. Manhetit ở đây thuộc loại sắt từ, dùng để sản xuất từ tính.
Dải sắt Khai Quang (Vĩnh Yên): bắt đầu từ xã Đạo Tú, Thanh Vân (Tam Dương) qua Định Trung về Khai Quang (Vĩnh Yên), có chiều dài hàng chục kilomet, rộng hàng chục mét, có chỗ hàng trăm mét.
Sắt ở Khai Quang cũng mới được điều tra và phát hiện, quặng chủ yếu là hematit, manhetit, phần trên mặt đã biến đổi thành limonit và gotit, hàm lượng đạt 40 – 50%.
Ngoài hai điểm trên, còn có một số điểm sắt như ở Đồng Bùa (Tam Đảo). Đây là khu vực cần được nghiên cứu chi tiết để có thể phát hiện các vùng có khoáng sản quan trọng nói trên.
8.3. Nhóm khoáng sản không kim loại
Trên địa bàn Vĩnh Phúc, khoáng sản không kim loại chủ yếu là cao lanh, có nguồn gốc phong hóa từ đá alumoxilicat như granit, plagio granit có các mạch đá aplit, sionit phân bố ở Tam Dương, Vĩnh Yên và Lập Thạch. Mỏ cao lanh Định Trung (Vĩnh Yên) có diện tích 5,5 km2. Có hai loại:
– Cao lanh do đá granit phong hóa, trữ lượng trên 6 triệu tấn. Cao lanh phong hóa còn có ở Thanh Vân, Hướng Đạo, Hoàng Hoa (Tam Dương), Yên Dương (Tam Đảo) nhưng chưa được đánh giá.
– Cao lanh do đá mạch kiềm Pecmalit, Sienit được phong hóa triệt để từ đá thuần Fenspat, phân bố ở mỏ Định Trung, xóm Mới Thanh Vân và rải rác ở thôn Lai Sơn (phường Đồng Tâm, Vĩnh Yên), xã Kim Long (Tam Dương).
8.4. Nhóm vật liệu xây dựng
– Sét gạch ngói: phân bố rộng rãi ở vùng đồng bằng và vùng đồi.
– Sét đồng bằng: có nguồn gốc trầm tích sông biển, đầm hồ. Tầng sét dày từ 1 – 10m, trên diện tích hàng trăm kilomet vuông với trữ lượng hàng tỷ mét khối. Chỉ tính ba mỏ được thăm dò là Đầm Vạc (Vĩnh Yên), Quất Lưu, Bá Hiến (Bình Xuyên) đã có trữ lượng hàng chục triệu mét khối.
– Sét vùng đồi: có nguồn gốc phong hóa không triệt để từ đá alumosilicat nên độ mịn không cao, độ xốp không lớn và kém dẻo. Loại sét này có độ dày từ 1 – 5m, màu nâu vàng, dùng để sản xuất gạch nhưng gạch thường xốp và giòn, tốn nhiều nhiên liệu đốt. Gạch sản xuất từ sét vùng đồi chỉ chiếm 1 – 3%.
– Sét màu xám đen, xám nâu: có mỏ ở Xuân Hòa (Lập Thạch), được phong hóa từ đá phiến sét có tuổi Devon. Khi nung với nhiệt độ từ 900 – 1.0000C, nước thoát ra làm cho đất sét phồng lên, tạo ra những lỗ xốp được gọi là sét Kêranzit, dùng sản xuất bê tông nhẹ để xây dựng các công trình trên nền đất yếu, có tác dụng chống nóng, chống ồn nhờ tính cách nhiệt, cách âm của nó. Mỏ sét Xuân Hòa có trữ lượng hàng triệu mét khối.
– Cát sỏi lòng sông và bậc thềm: cát sỏi lòng sông Lô, sông Đáy thuộc loại cát sỏi thạch anh, silic, có độ cứng cao, độ lựa chọn tốt, sắc cạnh, có độ bám dính, thường dùng để liên kết với vôi vữa và xi măng. Trong đó, cát sỏi sông Lô có trữ lượng tới 30 triệu mét khối, hằng năm được bổ sung từ thượng nguồn về hàng triệu mét khối. Cát sỏi bậc thềm, bậc 2 – 3 ở vùng Xuân Lôi, Văn Quán, Triệu Đề (Lập Thạch), Cao Phong (Sông Lô), xã Hoàng Đan (Tam Dương) thuộc sông Đáy có trữ lượng hàng chục triệu mét khối.
– Đá xây dựng: bao gồm đá khối, đá tảng, đá dăm với một khối lượng khổng lồ hàng tỷ mét khối tập trung ở dãy núi Tam Đảo.
Hiện nay, trong tỉnh có ba mỏ đang khai thác là mỏ Tân Trung (Lập Thạch), mỏ Đá Cóc xã Minh Quang (Tam Đảo), mỏ Trung Mầu (Bình Xuyên), hằng năm cung cấp hàng trăm ngàn mét khối đá xây dựng các loại, phục vụ các công trình xây dựng trong và ngoài tỉnh.
– Đá tạc, đá kè đê: vùng Bạch Lưu, Hải Lựu (Sông Lô) có loại đá cát kết, hạt vừa và nhỏ, bột kết dạng macnơ, cấu tạo khối, xếp lớn dàn. Ở Hải Lựu đã hình thành một làng nghề truyền thống chuyên đẽo đá, tạc đá thành những sản phẩm như cối giã hoặc sản phẩm mỹ thuật như các loại tượng đá, bia đá dùng cho lăng mộ, với hàng triệu sản phẩm mỗi năm. Loại đá hộc, đá khối nhỏ thường dùng làm đá kè đê, kè đường, mỗi năm cung cấp hàng trăm ngàn mét khối.
- ĐẶC ĐIỂM CÁC VÙNG ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Dựa vào các đặc điểm địa lý tự nhiên của tỉnh Vĩnh Phúc và sự phân ranh giới các vùng, có thể chia Vĩnh Phúc thành ba vùng địa lý tự nhiên khác nhau. Đó là:
– Vùng núi Tam Đảo, Sông Lô, Lập Thạch.
– Vùng trung du Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương.
– Vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc.
9.1. Vùng núi Tam Đảo, Sông Lô, Lập Thạch
Vùng địa lý tự nhiên này được chia thành hai vùng núi rõ rệt, là vùng núi Tam Đảo có độ cao lớn nhất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và vùng núi Sông Lô, Lập Thạch ở phía tây bắc tỉnh.
Dãy Tam Đảo là phần cuối cùng của dãy núi cánh cung thượng nguồn sông Chảy, phần đuôi hầu như chụm lại ở Tam Đảo, phía bắc xòe ra như những nan quạt, giảm dần độ cao rồi chuyển thành đồi gò trung du và đồng bằng Bắc bộ. Dãy Tam Đảo thuộc địa phận của ba tỉnh: Tuyên Quang, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc, chiều dài gần 60 km, chiều ngang khoảng 15 km. Trên địa phận tỉnh Vĩnh Phúc, dãy Tam Đảo nằm ở sườn phía tây nam của toàn khối núi, bắt đầu từ phía bắc là đỉnh Đạo Trù (Lập Thạch), phía đông được phân cắt bởi đường phân thủy ngăn cách giữa hai tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên cho đến hết dãy Tam Đảo.
Dãy Tam Đảo chạy theo hướng tây bắc – đông nam, có đặc điểm địa hình đỉnh nhọn, sườn dốc và ngắn, độ dốc trung bình 20 – 250, nhiều nơi trên 350. Cả dãy gồm hơn 20 đỉnh núi, được nối với nhau bởi những đường dông sắc nhọn. Dãy như bức bình phong chắn gió cho vùng đồng bằng. Đỉnh cao nhất là đỉnh núi Giữa (Đạo Trù) ở phía bắc, cao 1.592m. Ba đỉnh nổi tiếng của Tam Đảo là Thạch Bàn (1.388 m), Thiên Thị (1.357 m) và Phù Nghĩa (1.300 m). Độ chia cắt sâu lớn, dày bởi nhiều dông phụ gần như vuông góc với dông chính. Các lưu vực sông suối đều đổ về sông Đáy.
Vùng Tam Đảo gồm bốn kiểu địa hình chính:
– Địa hình thung lũng giữa núi và đồng bằng ven sông, suối: độ cao dưới 100m, độ dốc dưới 70, phân bố dưới chân núi và ven sông, suối.
– Địa hình đồi cao: độ cao 100 – 400m, độ dốc 10 – 150.
– Địa hình núi thấp: độ cao 400 – 700 m, độ dốc trên 250.
– Địa hình núi trung bình: độ cao 700 -1.592m, độ dốc 250. Phân bố ở phần cao nhất của khối núi, đỉnh và dông núi sắc nhọn, hiểm trở.
Vùng núi Sông Lô, Lập Thạch được cấu tạo bởi đá magma xâm nhập thuộc phức hệ sông Chảy có tuổi Paleozoi giữa trước -Devon sớm, gồm đá granit hạt vừa đến lớn dạng porphyr sẫm màu, granit muscovite hạt vừa đến nhỏ, granit hai mica dạng gneiss và các dạng mạch aplit, pegmatite. Đặc điểm của đá này là giàu nhôm và kiềm. Trong phức hệ sông Chảy có các thân caolin phong hóa từ các mạch aplitgranit, pegmatite hữu ích trong công nghiệp gốm sứ của địa phương. Ngoài ra, phía tây vùng là dãy núi Thét cao 335 m, chạy theo hướng tây bắc – đông nam, có tuổi Neogen sớm hệ tầng Na Dương. Dãy núi này được ngăn cách với khối núi có tuổi Paleozoi bởi đứt gãy theo hướng tây bắc – đông nam. Phía đông có tuổi Mesoproterozoi thuộc phức hệ sông Chảy. Đây là vùng núi thấp nằm ở phía tây bắc của tỉnh, có độ cao từ 100 – 633 m. Khối núi cao nhất có đỉnh cao 633 m (đỉnh núi Sáng). Từ 200 m trở lên, độ dốc rất lớn, có thể lên tới 15 – 200, có nơi 250 với những dông núi cao sắc nhọn tạo thành thung lũng ở giữa thấp, sườn rất dốc. Địa hình bị xâm thực, bóc mòn, chia cắt mạnh, tạo ra nhiều khe suối. Ở độ cao dưới 200 m là những đồi cao, gò với độ dốc thoải, có thể trồng rừng, canh tác nông nghiệp.
Vùng núi Tam Đảo, Sông Lô, Lập Thạch nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa vùng núi. Lượng mưa ở đai cao của núi Tam Đảo khá lớn (2.600 mm) vì ở đây có thêm lượng mưa địa hình. Mùa mưa từ tháng 4 đến cuối tháng 10, chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm. Mưa nhiều vào các tháng 6, 7, 8 và 9, cao nhất vào tháng 8 dương lịch, thường gây xói mòn và lũ lớn. Số ngày mưa khá nhiều trong năm (trên 140 ngày). Nhiệt độ trung bình của vùng núi là 19 – 200C. Còn khu vực chân núi, nhiệt độ cao hơn, khoảng 22 – 230C, tháng lạnh nhất là tháng 1 (11 – 150C), tháng nóng nhất là tháng 7 (26 – 280C). Riêng vùng đỉnh núi có nền nhiệt độ thấp hơn cả, bình quân 18 – 190C, nhiệt độ xuống thấp nhất là tháng 1 (10, 8 0C), nhiệt độ cao nhất vào tháng 6 (khoảng 230 C). Nhiệt độ khu nghỉ mát Tam Đảo thấp hơn nhiệt độ ở thành phố Vĩnh Yên khoảng 60C. Khí hậu vùng núi Tam Đảo, Sông Lô, Lập Thạch chia thành hai tiểu vùng: tiểu vùng khí hậu núi cao Tam Đảo quanh năm mát mẻ, thuận tiện cho phát triển du lịch, hình thành các khu nghỉ mát, du lịch, vui chơi giải trí; và tiểu vùng khí hậu gió mùa nội chí tuyến Đông Bắc Bắc bộ. Độ ẩm bình quân là 84 – 85%; vào mùa mưa, nhất là khi có mưa phùn, độ ẩm có thể lên tới 90%, nhưng vào mùa khô, độ ẩm giảm xuống, có khi chỉ còn 70 – 75%.
Do lượng mưa khá lớn nên mạng lưới sông suối trong vùng ngắn, dốc, có dạng chân rết, cấu trúc dốc và hẹp lòng từ đỉnh xuống chân núi, lưu lượng nước lớn, chảy vào các hồ trong vùng, thuộc lưu vực sông Đáy, chia làm hai mùa rõ rệt: mùa lũ (xảy ra vào tháng 8), lũ tập trung nhanh và cũng rút nhanh; mùa kiệt (tháng 2). Vùng có hệ thống hồ lớn nhỏ, lớn nhất là hồ Vân Trục ở phía nam, hồ Bò Lạc, hồ Suối Sải, hồ Đá Ngang và nhiều hồ nhỏ khác.
Đất ở vùng này chủ yếu là các loại đất xám, bao gồm: đất xám mùn đá nông, phân bố ở độ cao trên 700 m. Đất xám đỏ vàng đá nông, phân bố trên phần lớn diện tích vùng núi Tam Đảo, ở độ cao dưới 700 m. Một phần nhỏ diện tích đất loang lổ chua dọc theo thung lũng sông Bá Hạ. Dọc sông Cà Lồ và các nhánh của nó tồn tại các loại đất xám điển hình và các loại đất xám loang lổ. Dọc theo các sông suối, thung lũng, các đứt gãy trong vùng có các loại đất cát chua, và một số nơi có đất phù sa chua. Phía nam của vùng có đất xám vàng đá nông, phía tây có đất xám điển hình glây sâu.
9.2. Vùng trung du Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương
Vùng này nằm trên nền đá biến chất cao, tạo thành dải kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam, gồm Đá gnei giàu plagioclas, biotit, silimanit, có tuổi Proterozoi giữa, đôi chỗ gặp quarzit chứa mica hệ tầng Chiêm Hóa. Phía tây của vùng có một vài khối đồi sót có tuổi Neogen sớm (N1) hệ tầng Na Dương, là khối xâm nhập còn sót lại sau quá trình biển thoái cuối cùng. Ngoài ra, phần lớn diện tích vùng đồi này được cấu tạo bởi trầm tích Đệ Tứ có tuổi Pleistocen trung – thượng và tuổi Holocen trung – thượng . Vùng đồi có độ cao từ 20 đến 238 m, độ dốc trung bình nhỏ hơn 200, riêng khu phía đông bắc là vùng đồi cao hơn 200; khu vực này, các dãy đồi cao chạy theo hướng tây bắc – đông nam. Các đồi gò khác tồn tại ở dạng khối, phần lớn là các bề mặt Pediment cao 20 – 60 m với độ dốc trung bình cấp III (8 – 150). Dọc theo sông suối có các bậc thềm tích tụ sông bậc 1 và các bề mặt đồng bằng tích tụ tầng thấp giữa vùng đồi thấp. Thấp hơn là những bãi bồi tuổi hiện đại bằng phẳng (độ dốc nhỏ hơn 30). Phần phía đông của vùng có dạng địa hình đồi cao, nằm trên phần kéo dài của khối Tam Đảo, có tuổi Triat trung thuộc hệ tầng Nà Khuất và hệ tầng sông Hiến.
Khí hậu vùng này thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Gió đông nam thổi từ tháng 4 đến tháng 9; gió đông bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, tạo ra hai mùa rõ rệt: mùa nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9); mùa lạnh khô, mưa ít (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 – 240C, lạnh nhất vào tháng 1 (16,70C) và nóng nhất vào tháng 7 (30,20C). Lượng mưa năm là 1.166,6 mm, khô nhất là tháng 11 – 12 với lượng mưa tháng chỉ vào khoảng 9,0 – 9,5 mm, mưa nhiều nhất vào tháng 8 với lượng mưa lên tới 236,0 mm. Độ ẩm trung bình là 78 – 80%, trong đó tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 2 (72%), tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 8.
Mạng lưới thủy văn dày đặc, nhiều sông, suối, hồ, đầm. Hệ thống lớn nhất là hệ thống sông Đáy, cung cấp nước tưới cho đồng ruộng của các huyện Tam Dương, Bình Xuyên. Hệ thống kênh mương tương đối dày nhưng do nằm trong vùng hạ lưu các con sông chảy xuống từ Tam Đảo và do địa hình thoải nên vào mùa mưa, khả năng thoát nước kém, gây ngập úng, tạo ra nhiều hồ, đầm. Hệ thống hồ, đầm có tác dụng tích nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp trong mùa khô, trong đó, lớn nhất là đầm Vạc (Vĩnh Yên) nằm ở phía nam và hồ Đại Lải ở phía đông. Đầm Vạc có diện tích mặt thoáng, về mùa khô là 250 ha, về mùa lũ lên tới 500 ha. Đại Lải là hồ nhân tạo lớn nhất trong vùng với dung tích hữu ích là 25,4 triệu mét khối, diện tích tưới thiết kế là 2.700 ha. Ngoài nhiệm vụ tưới nước và phòng lũ còn phục vụ du lịch sinh thái, tạo cảnh quan môi trường hồ nước vùng trung du. Ngoài ra, còn có hệ thống kênh mương đào và các trạm bơm phục vụ công tác tưới, tiêu nước cho vùng.
Do phát triển trên đá gneis giàu plagioclas, biotit, silimanit nên loại đất được hình thành chủ yếu là đất xám, gồm các loại đất xám điển hình và đất xám đỏ vàng. Đất phù sa chua điển hình phân bố dọc theo các sông suối như sông Đáy, sông Cà Lồ… Theo dải hẹp nhỏ dọc sông Đáy có đất phù sa trung tính ít chua, ngập úng vào mùa mưa. Ngoài ra, còn có đất tầng mỏng trên vùng đồi cao thuộc phường Xuân Hòa (Phúc Yên). Sản phẩm trên bề mặt vùng đồi Vĩnh Phúc là sản phẩm phong hóa gồm các lớp đất sét nâu đỏ, laterit và các mũ sắt.
Thực vật chủ yếu là các loại cây trong rừng trồng (rải rác khắp vùng) và các loại cây ăn quả (vải, nhãn…), các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, lạc). Cây lương thực được trồng ở những khu vực có địa hình thấp, độ dốc nhỏ.
9.3. Vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc
Phần lớn diện tích vùng này nằm trên trầm tích sông tuổi Holocen trung – thượng, phía đông và đông nam có trầm tích biển tuổi Pleistocen, trầm tích hồ – đầm tuổi Pleistocen và một khối sót có tuổi Neogen hạ thuộc hệ tầng Na Dương.
Đây là vùng đồng bằng ven sông có độ cao nhỏ hơn 30 m, gồm các khu vực ven sông Hồng, độ dốc nhỏ, dưới 50.
Khí hậu của vùng cũng thuộc kiểu khí hậu đồng bằng Bắc bộ, nhiệt độ trung bình khoảng 230C, cao nhất vào tháng 7 (280C), thấp nhất vào tháng 1 (160C). Vùng có mưa phùn nhiều vào tháng 1 và tháng 2. Lượng mưa trung bình khoảng 1.500 – 2.000 mm.
Do địa hình thấp nên mùa mưa, vùng thường bị ngập úng, tạo ra nhiều hồ, đầm. Vùng có nhiều hệ thống kênh mương dẫn nước, tưới tiêu cho khu vực như kênh Liễn Sơn kéo dài trên bảy huyện, thị từ miền núi, trung du tới vùng đồng bằng (Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Mê Linh – Hà Nội). Sông Cà Lồ chảy từ xã Vạn Yên, huyện Mê Linh theo hướng đông bắc – tây nam, giữa hai huyện Bình Xuyên và Mê Linh (nay thuộc Hà Nội), có chiều dài 86 km. Nguồn nước sông Cà Lồ chủ yếu là tập trung nước của các sông, suối bắt nguồn từ núi Tam Đảo, núi Sóc Sơn, lưu lượng bình quân chỉ 30 m3/s. Lưu lượng cao nhất về mùa mưa là 286 m3/s. Tác dụng chính của sông là tiêu úng vào mùa mưa lũ. Đầm Rưng trải dài trên khu vực ba xã: Tam Phúc, Tứ Trưng và Ngũ Kiên (Vĩnh Tường), có diện tích mặt thoáng khoảng 205 ha, mùa lũ có khi lên tới 500 ha, có tác dụng tưới tiêu cho khu vực xung quanh và nuôi trồng thủy sản.
Đất trong vùng chủ yếu là đất phù sa trung tính ít chua, trong đó có phù sa trung tính ít chua điển hình, phù sa trung tính ít chua glây nông và sâu, phù sa trung tính ít chua loang lổ nông và sâu, phù sa trung tính ít chua có kết von. Dải phù sa chua nằm ở phía sau dải đất phù sa trung tính ít chua tính từ sông vào. Phía đông nam là dải đất loang lổ chiếm diện tích khá lớn, có xen lẫn đất xám.
Thảm thực vật chủ yếu là các loại cây công nghiệp ngắn ngày, cây lương thực. Ngoài ra, người dân nơi đây còn trồng các loại cây dược thảo, các loại hoa. Khu vực trong đê thường trồng lúa một vụ, hai vụ; khu vực ngoài đê thường trồng màu.
Như vậy, dựa vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, sự phân hóa về địa hình, cấu trúc của lớp địa chất, thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu, thủy văn, Vĩnh Phúc được chia thành ba vùng địa lý tự nhiên và mỗi vùng có những đặc trưng riêng. Vùng núi Tam Đảo, Sông Lô, Lập Thạch khí hậu mát mẻ, có tiềm năng du lịch lớn, đồng thời phát triển các loại hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Vùng trung du Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Tam Dương phát triển mạnh cả về công nghiệp lẫn nông nghiệp. Vùng đồng bằng Vĩnh Tường, Yên Lạc đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp tập trung, nông nghiệp hàng hóa; đây cũng là vùng có lợi thế phát triển nông nghiệp, các làng nghề và tiểu thủ công nghiệp.
vinhphuc.gov.vn