Ngành du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đến 2025 phấn đấu đón từ 25 – 28 triệu lượt khách quốc tế; 130 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 8 – 9%/năm.
Đây là một trong những nội dung nằm trong Quyết định 509/QĐ-TTg ngày 13.6 phê duyệt Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký ban hành.
Quyết vào nhóm quốc gia phát triển du lịch hàng đầu khu vực
Mục tiêu tổng quát của quy hoạch đến năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có năng lực phát triển du lịch cao trên thế giới. Đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng tăng trưởng xanh; trở thành điểm đến có năng lực phát triển hàng đầu thế giới.
Mục tiêu cụ thể, năm 2025, ngành du lịch phấn đấu đón từ 25 – 28 triệu lượt khách quốc tế; 130 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 8 – 9%/năm. Đến năm 2030, đón 35 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng từ 13 – 15%/năm; đón 160 triệu lượt khách nội địa, tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 4 – 5%/năm.
Phấn đấu năm 2025 đóng góp trực tiếp 8 – 9% trong GDP; đến năm 2030 đóng góp trực tiếp từ 13 – 14% trong GDP.
Theo quy hoạch, đến năm 2025, du lịch tạo ra khoảng 6,3 triệu việc làm, trong đó khoảng 2,1 triệu việc làm trực tiếp; đến năm 2030 tạo ra khoảng 10,5 triệu việc làm, trong đó khoảng 3,5 triệu việc làm trực tiếp.
Đến năm 2045, du lịch khẳng định vai trò động lực của nền kinh tế; điểm đến nổi bật toàn cầu, trong nhóm quốc gia phát triển du lịch hàng đầu khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Phấn đấu đón 70 triệu khách quốc tế; tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 7.300 tỉ đồng; đóng góp 17 – 18% trong GDP.
Để thực hiện mục tiêu này, quy hoạch xác định giai đoạn 2021 – 2025 sẽ phục hồi các thị trường truyền thống, kết hợp thu hút các thị trường mới nổi: Ấn Độ, các nước Trung Đông.
Giai đoạn tiếp theo từ 2026 – 2030 sẽ duy trì và mở rộng quy mô các thị trường truyền thống: các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á, châu Âu, Bắc Mỹ, Nga và Đông Âu, châu Đại Dương; đa dạng hóa các thị trường, chuyển dịch theo hướng tăng thị phần khách có khả năng chi trả cao.
Đối với thị trường nội địa, theo quy hoạch, giai đoạn 2021 – 2025, phục hồi và giữ vững đà tăng trưởng của thị trường khách nội địa. Giai đoạn 2026 – 2030 sẽ đẩy mạnh khai thác các phân đoạn thị trường chi trả cao, lưu trú dài ngày, các thị trường mới về du lịch golf, du lịch thể thao, du lịch mạo hiểm.
Hình thành 8 vùng động lực du lịch
Về định hướng phát triển sản phẩm, theo quy hoạch, sẽ khai thác tối ưu tài nguyên du lịch biển, đảo để phát triển các sản phẩm du lịch có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về nghỉ dưỡng biển, sinh thái biển và du lịch tàu biển. Phát triển các trung tâm nghỉ dưỡng biển cao cấp, có thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế.
Giá trị văn hóa vùng, miền cũng sẽ được phát huy làm nền tảng xây dựng các sản phẩm du lịch gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu lối sống, ẩm thực; kết nối các di sản Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới; gắn kết hiệu quả du lịch với công nghiệp văn hóa.
Đồng thời phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái dựa trên lợi thế về tài nguyên tự nhiên, đặc biệt là tại các khu dự trữ sinh quyển thế giới, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và khu bảo tồn biển; coi trọng phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn, sinh thái miệt vườn, sinh thái hang động, sông, hồ.
Bên cạnh đó, phát triển các loại hình du lịch mới theo hướng đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với những xu hướng mới của thị trường: du lịch kết hợp chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe và thẩm mỹ; du lịch nông nghiệp, nông thôn; du lịch thể thao, thể thao mạo hiểm; du lịch hội nghị, hội thảo, sự kiện (MICE); du lịch giáo dục; du lịch du thuyền; du lịch công nghiệp.
Đặc biệt, quy hoạch xác định hình thành 6 khu vực động lực phát triển du lịch đến năm 2030 gồm: Khu vực động lực phát triển du lịch Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh – Ninh Bình sẽ thúc đẩy phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng, rộng hơn là cả khu vực miền Bắc, gắn kết đa dạng và bổ trợ lẫn nhau về sản phẩm du lịch văn hóa lịch sử với du lịch biển, di sản thế giới.
Khu Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh tạo sự hỗ trợ theo hướng kết hợp đa dạng sản phẩm du lịch gắn với sinh thái, di sản thế giới, văn hóa lịch sử, tín ngưỡng với du lịch biển, du lịch về nguồn, du lịch cộng đồng gắn với các dân tộc thiểu số vùng núi.
Khu vực động lực phát triển du lịch Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên-Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam sẽ tập trung phát triển du lịch vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung; kết nối các di sản thế giới trong nước với quốc tế, gắn kết các sản phẩm du lịch văn hóa với du lịch đô thị và nghỉ dưỡng biển.
Với khu vực Khánh Hòa – Lâm Đồng – Ninh Thuận – Bình Thuận, du lịch sẽ phát triển trên cơ sở tăng cường liên kết giữa vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung với vùng Tây nguyên; đa dạng hóa sản phẩm trên cơ sở kết nối giữa du lịch nghỉ dưỡng núi với nghỉ dưỡng biển, văn hóa vùng đồng bằng với không gian văn hóa cồng chiêng Tây nguyên.
Khu vực động lực phát triển du lịch TP.HCM – Bà Rịa-Vũng Tàu: Thúc đẩy phát triển du lịch toàn bộ vùng Đông Nam bộ, gắn kết phát triển du lịch với hành lang kinh tế phía nam.
Ngoài ra, khu vực động lực Cần Thơ – Kiên Giang – Cà Mau sẽ thúc đẩy du lịch toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, gắn kết phát triển du lịch với hành lang kinh tế ven biển thuộc hành lang kinh tế phía nam.
Giai đoạn sau 2030, hình thành thêm 2 khu vực động lực là: Lào Cai – Hà Giang (thúc đẩy phát triển du lịch toàn bộ vùng Trung du và miền núi phía Bắc kết nối với thị trường khách du lịch ở Vân Nam (Trung Quốc) và gắn kết phát triển du lịch theo hành lang kinh tế Côn Minh – Hà Nội – Hải Phòng) và Hòa Bình – Sơn La – Điện Biên (thúc đẩy phát triển du lịch cho khu vực tiểu vùng Tây Bắc thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, gắn kết phát triển du lịch theo hành lang kinh tế Đông Tây theo quốc lộ 6).
Thanhnien.vn
Nguồn:https://thanhnien.vn/viet-nam-muon-don-28-trieu-khach-quoc-te-vao-2025-185240614152219291.htm