Theo quan niệm phổ biến hiện nay, bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp về lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế, thể chế… để hiện thực hoá các nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động quản lý của Nhà nước, trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, dân tộc.
Ngày 18/11/2019, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 88/QH14 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Những nguyên tắc và tiêu chuẩn này được pháp luật quốc tế và hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia công nhận. Theo Luật Nhân quyền quốc tế, Nhà nước có nghĩa vụ hàng đầu trong bảo đảm quyền con người. Nhà nước có nghĩa vụ phê chuẩn hoặc tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, thực hành dân chủ và áp dụng nguyên tắc pháp quyền trong quản lý xã hội nhằm làm cho mọi người được hưởng các quyền và tự do cơ bản mà không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo
Việc đảm bảo đầy đủ quyền con người đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện 3 cấp độ nghĩa vụ: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. Các nghĩa vụ này có quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau, được thừa nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.
Ra đời từ năm 1965, Công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) lên án nạn phân biệt chủng tộc và xác lập nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn các chính sách nhằm loại trừ các hình thức phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người dân tộc thiểu số.
Việt Nam tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và đã 55 lần bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia thực thi Công ước vào các năm 1983, 1993, 2000, 2012 và 2023.
Một trong các nội dung trong Báo cáo quốc gia là phải thể hiện được các kết quả trong xây dựng hệ thống pháp luật và các thiết chế bảo đảm, thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam.
Thứ nhất, ở góc độ nghĩa vụ tôn trọng
Nghĩa vụ này đòi hỏi Nhà nước phải có các hành động: Ghi nhận các quyền tự do cơ bản của con người trong hệ thống pháp luật quốc gia; Xây dựng những chuẩn mực cụ thể về quyền con người trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội; Thường xuyên chú trọng nâng cao nhận thức cho công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân.
Thực hiện nghĩa vụ tôn trọng, Nhà nước Việt Nam đã dành riêng Chương II với 36 điều trên tổng số 120 điều trong Hiến pháp 2013 – văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia để quy định trực tiếp, rõ ràng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm quyền của người DTTS tại Việt Nam.
Trong Hiến pháp 2013, có 6 Điều liên quan trực tiếp đến DTTS và chính sách dân tộc ở Việt Nam, gồm: Điều 5, 42, 58, 61, 70 và 75.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 2013, Việt Nam đã cụ thể hoá vào 98 bộ luật, luật với 290 điều khoản luật quy định liên quan đến công tác dân tộc, chính sách dân tộc – con số được cập nhật đến tháng 12/2022 trong Báo cáo của Uỷ ban Dân tộc.
Các điều khoản liên quan đến công tác dân tộc, chính sách dân tộc trong luật, bộ luật được ban hành đã tạo khung khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền của người DTTS. Xác lập cơ sở pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã hội).
Thứ hai, ở nghĩa vụ bảo vệ
Vi phạm quyền con người có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho các nạn nhân, huỷ hoại những giá trị tự do, bình đẳng và công lý, đe doạ đến sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc. Do vậy, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều biện pháp nhằm ngăn cấm, phòng ngừa, xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc. Chẳng hạn, Điều 16, Điều 20, Điều 21 và Điều 30 của Hiến pháp 2013.
Những quy định trên nhằm kiềm chế, ngăn chặn sự vi phạm quyền con người từ phía các cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân; ngăn chặn tình trạng phân biệt đối xử, hoặc hình thành các thế lực đe doạ quyền con người trên các lĩnh vực; xử lý có hiệu quả những vi phạm về quyền con người; ngăn chặn, điều tra, trừng trị và phục hồi các quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường bất cứ khi nào có thể…
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện
Nếu chỉ dừng lại ở các điều luật thì chưa đủ đảm bảo quyền con người mà cần có những thiết chế hỗ trợ quá trình thực thi luật pháp. Bằng các biện pháp tích cực, chủ động, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung thể chế về tổ chức, bộ máy, con người nhằm làm cho luật pháp và các chuẩn mực về quyền con người được hiện thực hoá.
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước, Uỷ ban Dân tộc là một cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác dân tộc trong phạm vi cả nước; quản lý Nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Dân tộc theo quy định của pháp luật.
Cũng liên quan đến nghĩa vụ thực hiện, Nhà nước Việt Nam còn có trách nhiệm tạo môi trường kinh tế thuận lợi, mang tính hỗ trợ cho việc tiếp cận nhiều quyền của các nhóm trong xã hội, nhất là những nhóm chịu thiệt thòi trong quá trình phát triển như người DTTS.
Ngày 19/6/2020, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 120/QH14 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 với số phiếu đồng thuận tuyệt đối 100% của các vị đại biểu Quốc hội có mặt.
Lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc hội đã ban hành một nghị quyết riêng về công tác dân tộc, là một bước cụ thể hóa nội dung đã được quy định tại Khoản 5, Điều 70, Hiến pháp năm 2013: “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước”.
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, ngày 14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ 2021 – 2025.
Trà Khánh