Ẩm thực Việt Nam có nhiều món ngon kho nấu trong chiếc niêu (nồi) đất dân dã, từ cơm niêu có lớp cháy vàng thơm đến các loại thịt kho, cá kho chín om sau nhiều tiếng đồng hồ trên bếp, hay món kho quẹt đậm đà dùng để chấm các loại rau củ luộc thanh mát. Hình ảnh chiếc nồi đất thôn quê đã trở nên quen thuộc cùng các món ăn truyền thống Việt Nam nhưng ít thực khách biết rằng nhiều địa phương trong cả nước sử dụng nồi đất được làm ra từ vùng miền Tây xa xôi xứ Nghệ.
Xã Trù Sơn ở huyện Đô Lương vốn có nghề làm nồi đất lâu đời nổi tiếng ở tỉnh Nghệ An. Người ta còn hóm hỉnh đặt cho nơi đây cái tên “Vương quốc nồi đất” bởi nơi này ngoài sản xuất nông nghiệp thì bà con gắn bó với nghề truyền thống đã hàng trăm năm, làm ra những sản phẩm được nhiều vùng biết đến bởi sự bền, đẹp. Hiện có vài chục hộ gia đình tại các xóm trong xã Trù Sơn vẫn theo nghề cha ông để lại, hàng ngày vuốt nặn đất sét để làm nên nhiều chủng loại nồi, chum đất cung cấp ra thị trường. Món cá kho của làng Vũ Đại (Hà Nam) nức tiếng chính được dùng là loại nồi đất đặt hàng từ Trù Sơn.
Các cụ cao niên ở Trù Sơn kể lại rằng, không rõ nghề này có từ khi nào nhưng vài thế hệ gia đình đã theo nghiệp làm nồi. Trẻ em ở đây đến 5 tuổi đã được học các công đoạn đơn giản để cùng cha mẹ, ông bà sản xuất mưu sinh. Xa xưa, nghề này chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm. Đa phần là con dâu, con gái trong nhà được các bà, các mẹ truyền nghề. Phải chăng những bàn tay khéo léo, nhẹ nhàng cùng với đức tính cần cù, nhẫn nại của nữ giới phù hợp với nghề này hơn. Ngày nay, đến Trù Sơn, những người phụ nữ với đôi bàn tay mềm mại đang vuốt nặn vẫn là hình bóng đi vào tâm trí du khách, nhưng cánh đàn ông sốc vác đã cùng tham gia vào nhiều công đoạn sản xuất. Một chiếc nồi thành phẩm phải trải qua nhiều khâu. Đất sét được xắn ra, chia nhỏ rồi nhào trộn nhuyễn, loại bỏ tạp chất. Sau khi nhào kỹ, cục đất sét được cho lên bàn xoay để định hình ban đầu. Tiếp đến, người thợ sẽ tiếp tục chau truốt, vuốt nặn để làm nên thành phẩm ưng ý rồi đem phơi nắng, cuối cùng mới là công đoạn nung. Nung nồi được xem là khâu quan trọng bậc nhất. Các sản phẩm được xếp khéo chồng lên nhau thành ụ lớn, phủ rơm rạ hay lá thông khô rồi hun lửa từ dưới lên cho khói bao trùm toàn bộ lò nung. Sau khoảng 30 phút thì dừng lửa, xếp đảo nồi và nung tiếp, cứ làm vài lần như vậy trong vòng 4,5 giờ đồng hồ mới ra được thành phẩm. Việc duy trì khói, lửa, nhiệt độ cũng là bí quyết để có những sản phẩm cứng, bền và màu sắc đều, đẹp.
Công đoạn phơi và nung nồi được làm ngoài trời và rất cần nắng. Chính vì thế, những xóm làng ở Trù Sơn dù có nhiều ngôi nhà khang trang nhưng đến đây du khách không khó để bắt gặp những ngôi nhà xưa cũ với khoảng sân đầy nắng được tận dụng để phơi và nung nồi. Người dân nơi đây còn khéo léo trang trí những chiếc xe thồ mang hình bóng thời gian khó dùng để vận chuyển nồi đất mang đi bán ở các tỉnh xa.
Tạp chí Heritage