Đó là một trong những yêu cầu tại Thông tư số 23/023/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo quy định về việc dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một.
Với mục đích chuẩn bị tâm thế sẵn sàng, tạo hứng thú, chủ động cho trẻ trong học tập; hình thành một số kĩ năng học tập cơ bản và năng lực sử dụng tiếng Việt, kĩ năng giao tiếp, ứng xử xã hội cho trẻ là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một, ngày 11/12, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư này.
Thông tư quy định 5 nội dung dạy và học tiếng Việt cho trẻ em là người DTTS trước khi vào lớp Một gồm các nội dung: Chuẩn bị tâm thế vào lớp Một; Hình thành các kĩ năng học tập cơ bản; Hình thành và phát triển năng lực nghe, nói; Hình thành và phát triển năng lực đọc; Hình thành và phát triển năng lực viết.
Trong đó,
Chuẩn bị tâm thế vào lớp Một: Trẻ được làm quen với môi trường vật chất ở trường, lớp cấp tiểu học: không gian lớp học, trường học, thư viện, phòng học bộ môn, khu vui chơi, bán trú, công trình phụ trợ; đồ dùng học tập, thiết bị dạy học và phương tiện học tập. Trẻ được tham gia học tập và tham gia các hoạt động giáo dục khác; được rèn nếp sống tự lập, tự phục vụ và sinh hoạt tập thể theo quy định của lớp, trường.
Hình thành các kĩ năng học tập cơ bản gồm: Kĩ năng chuẩn bị, sử dụng, bảo quản và giữ gìn đồ dùng học tập, xác định được các vị trí trên bảng con, bảng lớn trong không gian lớp học, trường học. Kĩ năng sử dụng các kí hiệu, quy ước được sử dụng trong học tập, vui chơi và trong các hoạt động tập thể khác.
Hình thành và phát triển năng lực nghe, nói: Biết cách sử dụng tiếng Việt trong những nghi thức giao tiếp cơ bản: cảm ơn, xin lỗi, hỏi và trả lời những câu hỏi đơn giản. Nghe – nói trong những tình huống làm quen ban đầu và giao tiếp bằng tiếng Việt phù hợp với lứa tuổi.
Hình thành và phát triển năng lực đọc: Rèn kĩ thuật sử dụng sách, kĩ thuật đọc đúng: cầm sách, mở sách, lật sách; giữ khoảng cách giữa mắt với sách; nhận biết bìa sách và trang sách, chữ và hình ảnh minh họa trong sách. Củng cố việc nhận dạng và đọc được chữ cái đơn (một âm ghi bằng một chữ) là chữ in thường, các chữ số từ 1 đến 9.
Hình thành và phát triển năng lực viết: Biết ngồi viết đúng tư thế, biết cách cầm bút chì bằng ba đầu ngón tay, biết cách tô chữ và chữ số trên vở ô li. Tô được các tổ hợp nét cơ bản: nét ngang, nét thẳng, nét xiên trái, nét xiên phải; thực hiện các hoạt động tô chữ, tô từ và tô chữ số từ 1 đến 9.
5 nội dung này dạy và học này được sắp xếp theo trình tự khoa học, tương ứng với 20 bài học, thể hiện thông qua các chủ đề, chủ điểm gần gũi và phù hợp với trẻ theo định hướng tiếp cận năng lực và phẩm chất người học.
Thông tư cũng quy định rõ, thời lượng chương trình dạy học tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp Một tối đa là một tháng (trong hè trước khi trẻ học chương trình lớp 1), không quá 80 tiết học, mỗi tiết học không quá 35 phút, mỗi buổi học không quá 120 phút. Giữa các tiết học, trẻ cần được nghỉ 5-10 phút chuyển tiết.
Địa điểm dạy và học là tại điểm trường chính hoặc các điểm trường lẻ của trường tiểu học, bảo đảm thuận tiện đi lại, an toàn và phù hợp tâm sinh lí của trẻ.
Về giáo viên, phải được tập huấn về nội dung và phương pháp dạy học tiếng Việt cho trẻ là người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp Một, phương pháp dạy ngôn ngữ thứ hai để chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ, được bồi dưỡng tiếng dân tộc (tiếng mẹ đẻ) của trẻ. Thông tư quy định khi bố trí, ưu tiên những giáo viên có năng lực tốt, tay nghề vững vàng, biết tiếng dân tộc, am hiểu văn hóa địa phương, dân tộc của trẻ.
Ngoài quy định cụ thể các nội dung, thời lượng, thời gian, các điều kiện dạy và học, Thông tư 23 của Bộ Giáo dục cũng quy định các nội dung khác về công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Thời hạn bắt đầu có hiệu lực của Thông tư là từ 23/1/2024.
Hải Anh