Do quan hệ tài chính và thương mại chặt chẽ nên việc USD tăng giá hay Fed nâng lãi suất tác động đến châu Âu có khi còn lớn hơn tại Mỹ.
Không chỉ người Mỹ lo lắng theo dõi xem liệu Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có tăng lãi suất hay đẩy đất nước vào suy thoái hay không, người châu Âu và nhiều quốc gia khác cũng vậy. Đó là vì bất chấp các cuộc thảo luận về phi toàn cầu hóa và phi đôla hóa, USD vẫn là “vua” tại những nơi này. Các mối quan hệ tài chính và thương mại giữa Mỹ với các đối tác quan trọng hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong trường hợp của châu Âu, điều này thậm chí còn mạnh hơn.
Đầu năm ngoái, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cố gắng vạch ra một lộ trình khác với Fed. Họ dự định giữ lãi suất ở mức thấp bất chấp Fed tăng. Nhưng sau khi euro trượt giá so với USD, ECB buộc phải nhanh chóng đảo ngược kế hoạch, do lo ngại nhập khẩu lạm phát bởi năng lượng được thanh toán bằng USD.
Giờ thách thức đang ngược lại. Fed đã phát đi tín hiệu sẽ tạm dừng tăng lãi suất tại cuộc họp chính sách vào tháng 6 để xem liệu mức tăng 5 điểm phần trăm kể từ đầu ngoái có làm chậm lại đáng kể nền kinh tế Mỹ hay không. Điều đó có thể khiến ECB khó tăng lãi suất hơn trong khi họ vẫn đối diện lạm phát đang cao. “USD đóng vai trò thống trị trong nền kinh tế toàn cầu”, Maurice Obstfeld, cựu Kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nói.
Thảo luận về việc USD mất ưu thế tiền tệ dự trữ ngày càng nhiều khi các nước như Arab Saudi, Trung Quốc và Nga tăng sử dụng các loại tiền tệ khác. Đó là phản ứng trước việc Mỹ “vũ khí hóa” USD, đơn cử như đóng băng dự trữ ngoại tệ của Nga. USD chiếm chưa đến 60% dự trữ ngoại hối chính thức toàn cầu trong quý II/2022, so với 72% vào hai thập kỷ trước. Do đó, nó mất dần sự thống trị.
Mỹ chỉ chiếm khoảng một phần tư sản lượng và chỉ hơn 10% thương mại toàn cầu, nhưng gần một nửa thương mại trên thế giới được lập hóa đơn bằng USD. Đồng bạc xanh tham gia vào gần 90% giao dịch ngoại hối toàn cầu vào năm ngoái, theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế.
Khoảng một nửa số chứng khoán nợ quốc tế và các khoản vay xuyên biên giới được phát hành trên thị trường nợ nước ngoài cũng được tính bằng USD. Những mối liên kết này truyền lãi suất cao hơn của Mỹ sang các nền kinh tế khác theo nhiều cách. Ví dụ, chúng hút vốn ra khỏi các nền kinh tế, đẩy chi phí vay lên cao và khiến các đồng tiền khác mất giá so với USD.
Theo nghiên cứu của ECB, khoảng một phần ba thay đổi về lãi suất do Fed thắt chặt chính sách tạo ra mức tăng lãi suất tương đương ở Đức. Khi USD tăng giá, các mặt hàng định giá bằng tiền tệ này – như dầu mỏ – trở nên đắt đỏ hơn. Ngoài ra, lãi suất cao hơn sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của Mỹ, làm giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nước ngoài.
Những điều này có nghĩa là việc Fed tăng lãi suất ảnh hưởng đến nền kinh tế châu Âu nhiều – thậm chí nhiều hơn ảnh hưởng đến Mỹ, theo ECB. Nghiên cứu cũng cho thấy việc thắt chặt của Fed từ năm 1991-2019 đã làm giảm sản lượng công nghiệp, giá cổ phiếu, khoản vay kinh doanh và tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng euro, đồng thời gây áp lực lên thương mại thế giới bên ngoài Mỹ. Ngược lại, các hành động của ECB có tác động rất ít đến kinh tế Mỹ.
Các quan chức của ECB theo dõi rất chặt những hành động chính sách của Fed và theo dõi tỷ giá hối đoái giữa đồng euro với USD. “Khi Fed dẫn đầu, những người khác sẽ theo sau mà không do dự”, Panicos Demetriades, Cựu quan chức ECB, Cựu Thống đốc ngân hàng trung ương Cyprus, nói.
Tất nhiên, ECB không chỉ đi theo Fed hoàn toàn mà còn có những hành động riêng để đối phó với lạm phát. Chủ tịch ECB Christine Lagarde thừa nhận tiền tệ có tính tác động. Bất kỳ ảnh hưởng lan tỏa nào cũng sẽ được họ tính đến, nhưng bà tuyên bố không phụ thuộc vào Fed. “Chúng tôi có nhiều nền tảng để xoay xở hơn và sẽ không dừng lại”, bà nói về đối phó với lạm phát đầu tháng 5.
Dù vậy, những động thái tiếp theo của ECB cũng phụ thuộc lớn vào Mỹ. Chuyên gia Maurice Obstfeld cho biết lãi suất chính sách của ECB đang thấp hơn khoảng 2 điểm phần trăm so với của Fed và họ không có thời gian để theo kịp.
Sắp tới, liệu ECB có tiếp tục thắt chặt tiền tệ hay không sẽ phụ thuộc vào việc Fed có đẩy Mỹ vào suy thoái không. Đối với châu Âu, xuất khẩu – đặc biệt là sang Mỹ – là một trụ cột mạnh mẽ hiếm có khi sức mua nội địa đang suy giảm. Thương mại hàng hóa giữa EU và Mỹ đã tăng lên 86 tỷ USD trong tháng 3, tăng khoảng 8% so với cùng kỳ 2022, theo Cục điều tra dân số Mỹ.
Nếu Mỹ rơi vào suy thoái những tháng tới, nhập khẩu của nước này có thể giảm, làm châu Âu mất đi một trụ cột tăng trưởng. Bù lại, viễn cảnh đó sẽ khiến USD suy yếu, giúp châu Âu có giá năng lượng rẻ hơn và nhập khẩu lạm phát ít đi. Nghĩa là, việc Mỹ suy thoái có thể khiến cuộc sống của người châu Âu trở nên khó khăn hơn nhưng sẽ dễ cho ECB đối phó hơn.
“Châu Âu nói chung đang ở trong tình trạng khá bấp bên, điều đó sẽ khiến ECB phải thận trọng”, Obstfeld đánh giá.
Phiên An (theo WSJ)