Nghiên cứu, phát triển nguồn gen động vật hoang dã và vật nuôi
Nguồn gen là tài sản quốc gia, là nguồn tài nguyên sinh học để phát triển khoa học, kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh. Việc bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen là trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ thu thập, lưu giữ tối thiểu 100.000 nguồn gen động, thực vật hoang dã và giống cây trồng, vật nuôi.
Để thực hiện mục tiêu, Việt Nam sẽ xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; chú trọng công tác bảo tồn tại chỗ, nghiên cứu gây nuôi bảo tồn và tái thả vào tự nhiên một số loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; quản lý, bảo vệ các loài hoang dã di cư; tăng cường phối hợp với các tổ chức quốc tế thiết lập hệ thống theo dõi, giám sát các tuyến di cư quan trọng của các loài hoang dã di cư.
Việc điều tra, đánh giá thực trạng các loài thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm; xây dựng và phát triển các vườn thực vật, áp dụng các biện pháp nhân giống, phục hồi và mở rộng diện tích trồng các loài thực vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; thực hiện bảo tồn tại chỗ các loài cây dược liệu có giá trị được làm thường xuyên. Định kỳ cập nhật và công bố Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; cập nhật, biên soạn và xây dựng trang thông tin điện tử về Sách đỏ Việt Nam; xây dựng Danh mục các loài hoang dã nguy cấp và chế độ quản lý, bảo vệ phù hợp với từng nhóm loài.
Chương trình cần mở rộng và tăng cường năng lực mạng lưới các trung tâm cứu hộ trên toàn quốc bảo đảm nhu cầu cứu hộ các loài hoang dã theo vùng miền và loại hình cứu hộ các loài hoang dã, phát triển các cơ sở gây nuôi bảo tồn; tăng cường hệ thống triển lãm, trưng bày, bảo tàng thiên nhiên, đa dạng sinh học ở Việt Nam; hoàn thiện hành lang pháp lý và hướng dẫn kỹ thuật để quản lý các cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học.
Cùng với đó, 42 nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho phép khai thác, phát triển dạng thuần. Việc phát triển, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn gen vật nuôi bản địa góp phần cung cấp nguyên liệu di truyền phục vụ phát triển ngành chăn nuôi, đưa nhanh ra sản xuất đó là phát huy ưu thế lai giữa các nguồn gen bản địa và nhập nội. Điều này, khẳng định thêm vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo tồn lưu giữ nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam.
Để bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn gen gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học, từ nay đến năm 2025, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bằng những công nghệ truyền thống.
Giai đoạn từ 2025-2030 sẽ định hướng nâng cấp, tích hợp công nghệ phục vụ công tác bảo tồn vật nuôi nhằm lưu giữ chắc chắn nguồn gen quý trong mọi điều kiện bất lợi, nhân nhanh được nguồn gen cho nhu cầu sản xuất, triển khai thành hàng hóa và bảo tồn bền vững. Có thể nói, công tác bảo tồn nguồn gen đã được quan tâm phát triển và có những bước chuyển rõ rệt, đặc biệt một số nguồn gen vật nuôi đã triển khai thành hàng hóa và bảo tồn bền vững. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, do thiếu nguồn nhân lực, kinh phí, nhận thức xã hội về việc bảo tồn quỹ gen còn thấp nên công tác bảo tồn chưa đạt hiệu quả cao.
Theo Vụ trưởng Vụ Khoa học và công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học và Công nghệ) Nguyễn Đình Hậu, quan điểm của Bộ Khoa học và Công nghệ là lồng ghép chính sách bảo tồn với các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, lồng ghép công tác khoa học – công nghệ về nguồn gen với các hoạt động công nghệ, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế vùng và địa phương.
Đến nay, cả nước đã xây dựng được một mạng lưới bảo tồn nguồn gen vật nuôi rộng lớn từ Trung ương đến các địa phương do Viện Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thực hiện với mạng lưới là các trường Đại học, Viện nghiên cứu, hiệp hội, các nông hộ và chủ trang trại, gia trại nơi có nguồn gen vật nuôi. Song song với việc hình thành, xây dựng và phát triển mạng lưới, hệ thống cơ sở vật chất, chuồng trại đã được nâng cấp cải tạo, đặc biệt là các cơ sở nghiên cứu thuộc Viện Chăn nuôi để lưu giữ nguồn gen vật nuôi một cách ổn định với quy mô hợp lý trên các địa bàn khác nhau trong cả nước.
Bên cạnh đó, Viện Chăn nuôi được Nhà nước đầu tư xây dựng một Phòng Thí nghiệm trọng điểm công nghệ tế bào động vật với hệ thống trang thiết bị, máy móc hiện đại để phục vụ nghiên cứu, đánh giá di truyền phân tử, lưu giữ các nguyên liệu di truyền của nguồn gen vật nuôi để bảo tồn và lưu giữ nguồn gen tốt hơn và từng bước khai thác phát triển hợp lý giá trị kinh tế các đối tượng nguồn gen vật nuôi bản địa Việt Nam. Tuy nhiên, hiện phương pháp bảo quản còn đơn giản, số lượng nguồn gen được bảo quản bằng các phương pháp bảo quản dài hạn còn hạn chế. Cơ sở bảo quản và lưu giữ nguồn gen còn chưa đủ hoặc thiếu trang thiết bị chuyên dụng, phục vụ bảo quản dài hạn nguồn gen vi sinh vật như: bình nitơ lỏng, máy đông khô, chưa có phòng riêng bảo quản, lưu giữ nguồn gen vi sinh vật…
Bảo tồn thành công nhiều nguồn gen thực vật quý hiếm
Trong 5 năm trở lại đây, công tác cấp phát nguồn gen đã có những bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Trung bình mỗi năm, Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) cấp khoảng 1.000 mẫu giống. Các mẫu giống được sử dụng có hiệu quả trong nghiên cứu và khai thác nguồn gen.
Ông Nguyễn Đình Hậu, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Công tác khai thác nguồn gen đã được các đơn vị tập trung triển khai, đạt được kết quả như: chọn tạo/phục tráng, phát triển được 30 giống lúa tại các tỉnh Bình Thuận, Phú Yên, Cần Thơ; phục tráng/chọn tạo được các giống dứa Cayen không gai Chân Mộng; vải Hùng Long-VPH10; chuối Tiêu vừa Phú Thọ-VN1064; xoài Vân Du-XPH11; giống Lạc tiên-LPH04; giống cà phê chè -TN1 và TN2; quýt – PQ1… Các giống trên cho năng suất cao, chất lượng, khả năng chống chịu tốt. Nhiều nguồn gen cây cải tạo và bảo vệ đất đã được sử dụng để phục hồi, cải tạo, chống xói mòn đất tại huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) và thành phố Cẩm Phả (tỉnh Quảng Ninh); chống xói lở đất đường Hồ Chí Minh ở Hà Tĩnh, Hòa Bình, Quảng Bình và một số nơi khác.
Có thể kể đến như Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa, đã thực hiện thành công đề tài khoa học “Bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen lan Hài Vân Bắc, lan Hài Lông và lan Thủy Tiên Hường vùng Bắc Trung Bộ (giai đoạn 2017-2022). Qua đó, phát hiện được 210 cá thể lan Hài Vân Bắc, 1.175 cá thể lan Hài Lông, 1.265 cá thế lan Thủy Tiên Hường tại khu vực Bắc Trung Bộ.
Thời gian tới, Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên sẽ đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa và Bộ Khoa học Công nghệ tạo điều kiện để đơn vị tiếp tục đăng ký thực hiện Dự án “Hoàn thiện quy trình và sản xuất giống các loài lan Hài Vân Bắc, lan Hài Lông và lan Thủy Tiên Hường cho vùng Bắc Trung Bộ”, phục vụ công tác bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen các loài này một cách bền vững và hiệu quả, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học của tự nhiên.
Hay như Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng đậu nành Vinasoy (VSAC – thuộc Công ty Sữa đậu nành Việt Nam) vừa thực hiện đợt trồng khảo nghiệm, đánh giá 1.533 nguồn gen đậu nành quý tại Trạm Khảo nghiệm đậu nành Tây Nguyên sau 10 năm thu thập, nghiên cứu. Đây là đợt trồng đánh giá toàn bộ tập đoàn nguồn gen đậu nành hiện có để làm vật liệu lai tạo giống, nhằm phát triển các giống đậu nành mới có chất lượng dinh dưỡng và năng suất cao, phù hợp với các vùng nguyên liệu khắp cả nước.
Ông Huỳnh Sơn Hải, Giám đốc, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng đậu nành Vinasoy cho biết, Vinasoy đã quyết tâm đầu tư đến cùng cho vùng nguyên liệu để chủ động được nguồn đậu nành thơm ngon, giàu dinh dưỡng. Vì vậy, Vinasoy đã đầu tư phát triển đội ngũ kỹ sư, nhà khoa học giỏi nhất và công nghệ nghiên cứu tiên tiến nhất trong lĩnh vực đậu nành. Qua đó, chọn tạo thành công giống đậu nành không biến đổi gen VINASOY 02-NS, có năng suất cao, phù hợp với các dòng sản phẩm và chuyển giao cho nông dân ở các vùng nguyên liệu cải thiện năng suất chỉ từ 1 – 1,5 tấn lên 2,5 – 3 tấn/ha.
Cũng nhằm bảo tồn và nhân rộng mô hình trồng các loài cây dược liệu quý, góp phần phát triển kinh tế cho người dân, Hạt kiểm lâm huyện Thạch Thành (Chi cục Kiểm lâm, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thanh Hóa) đang triển khai đề tài khoa học công nghệ “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển một số loài dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao như trà hoa vàng Hàm Yên, trà hoa vàng Cúc Phương tại các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn 2021-2023)”.
Được biết, trà hoa vàng Hàm Yên, trà hoa vàng Cúc Phương chứa các chất có tác dụng bảo vệ sức khỏe, củng cố tính đàn hồi của thành mạch, điều hòa các enzyme hoạt hoá cholesterol…
Có thể nhận thấy, các nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen vật nuôi đều cho kết quả tốt, được ứng dụng hiệu quả vào đời sống. Đáng chú ý, sau một thời gian thực hiện, các đề tài nghiên cứu không những đã chọn lọc được đàn hạt nhân mang các đặc trưng của giống dựa trên các tiêu chuẩn cơ sở mà còn xây dựng được một số quy trình chăn nuôi phù hợp với từng đối tượng vật nuôi.
Hiện nay, cơ sở dữ liệu nguồn gen bước đầu đã được xây dựng, tuy nhiên chưa xây dựng được mạng lưới nguồn gen trong cả nước tham gia vào mạng lưới nguồn gen nói chung, nguồn gen nông nghiệp trong khu vực và trên thế giới nên việc giới thiệu, quảng bá, khai thác sử dụng nguồn gen còn hạn chế.
Vì vậy, cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cấp và trang thiết bị bảo tồn, đánh giá nguồn gen, hệ thống bảo quản, nhà lưới; gia tăng nguồn lực khoa học – công nghệ trong lĩnh vực bảo tồn, khai thác, phát triển nguồn gen, tạo điều kiện để cán bộ thực hiện nhiệm vụ tiếp cận các nguồn thông tin, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, phương pháp, kỹ thuật trong bảo tồn, đánh giá tuyển chọn và khai thác nguồn gen tại Việt Nam cũng như trên thế giới…/.