Hội thảo lần thứ sáu của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) về vận dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và các văn kiện pháp lý quốc tế khác trong ứng phó với các thách thức đang nổi lên trên biển do Bộ Ngoại giao tổ chức ngày 17/3 tại Hà Nội. (Ảnh: Thành Long) |
Trả lời phỏng vấn TG&VN, PGS.TS Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao khẳng định, khó có thể có một điều ước rộng rãi hơn, thu hút nhiều bên tham gia hơn Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) (với 169 thành viên). Những điều khoản của UNCLOS vừa đóng vai trò như khung pháp lý, đồng thời vẫn “sống” với thời gian.
Năm nay đã là năm thứ 31 UNCLOS đi vào thực thi. Bà đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của UNCLOS trong việc thúc đẩy hòa bình, ổn định trên biển và đại dương nói chung?
Có thể nói, UNCLOS là điều ước quốc tế rất quan trọng, bởi vì, đối tượng điều chỉnh chủ yếu của UNCLOS là biển và đại dương (chiếm đến 70%) bề mặt Trái đất. Tất cả điều khoản của Công ước đều hướng đến quản trị biển một cách hòa bình và bền vững.
Chính vì vậy, nếu các bên tuân thủ quy định của UNCLOS trong việc đặt ra một trật tự về quyền và nghĩa vụ của các bên, Công ước sẽ gián tiếp tạo nên một trật tự dựa trên luật pháp trên biển. Nhờ vậy, quyền và lợi ích của các bên sẽ được hài hòa hóa, đảm bảo để phù hợp với việc một mặt sử dụng biển vào mục đích hòa bình, mặt khác hướng đến những mục đích quản trị bền vững, hướng tới tương lai.
UNCLOS là điều ước khá toàn diện với hơn 300 điều khoản. Phải mất thời gian rất dài, hơn 11 năm, các bên mới đàm phán để thống nhất, có được UNCLOS. Có một số ý kiến chỉ trích các điều khoản của UNCLOS không quá cụ thể, hoặc thậm chí lạc hậu khi hoàn tất từ năm 1982.
Trong bối cảnh cộng đồng quốc tế đối mặt với nhiều thách thức phi truyền thống và chưa có tiền lệ, UNCLOS vẫn giữ vai trò là bản “Hiến pháp của đại dương” – một khuôn khổ pháp lý toàn diện, điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương. Đồng thời, UNCLOS bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng để ứng phó với các vấn đề cấp thiết nảy sinh. Sau một quá trình dài hình thành và phát triển, UNCLOS trở thành một trong những văn kiện pháp lý quan trọng hàng đầu của cộng đồng quốc tế. Công ước là nền tảng để các quốc gia thúc đẩy hợp tác bảo tồn môi trường biển, đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển. Thứ trưởng Ngoại giao Lê Anh Tuấn phát biểu tại Hội thảo lần thứ sáu của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) về vận dụng UNCLOS. |
Nhưng thực sự, để có một điều ước rộng rãi hơn, thu hút nhiều bên tham gia hơn là rất khó. Hiện nay, UNCLOS có 168 thành viên. Hoặc giả sử đàm phán lại UNCLOS theo công thức mới, thì cũng không chắc có thể ra kết quả chi tiết hơn.
Những điều khoản của UNCLOS vừa đóng vai trò như khung pháp lý, đồng thời vẫn “sống” với thời gian. Trong UNCLOS có những quy định giúp Công ước có thể mở rộng việc giải thích đến những điều ước có liên quan, miễn là các mục tiêu và mục đích phù hợp với việc sử dụng biển hòa bình và bền vững. Miễn là luật pháp quốc tế được giải thích một cách nhất quán, không mâu thuẫn và không đối lập nhau, UNCLOS vẫn giữ nguyên giá trị sau 31 năm.
UNCLOS vẫn được ví như bản “Hiến pháp của đại dương”, giúp các bên hài hòa, dung hòa lợi ích của nhau và đạt được lợi ích chung trên toàn cầu.
Để trả lời cho những nghi hoặc về UNCLOS, hiện nay, các quốc gia đang rất nỗ lực thúc đẩy các “cánh tay nối dài” của UNCLOS, trong đó phải kể đến Hiệp định về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (BBNJ), được các nước tích cực tham gia. Bà nhận định ra sao về việc các quốc gia thành viên UNCLOS tiếp tục thúc đẩy sứ mệnh quan trọng của Công ước?
BBNJ là một hiệp định thực thi của UNCLOS. Đây không phải lần đầu tiên UNCLOS có một hiệp định thực thi. Năm 1994, UNCLOS đã có một hiệp định thực thi về vùng đáy biển quốc tế. Năm 1995, các quốc gia ký một hiệp định thực thi của UNCLOS liên quan đến luồng cá di cư.
Năm ngoái, các quốc gia đã ký kết Hiệp định BBNJ để điều chỉnh vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia với mục tiêu bảo vệ đa dạng sinh học tại vùng biển đó. Một lần nữa, người ta thấy rằng BBNJ sẽ giúp UNCLOS như một văn kiện sống.
Bởi vì, bất cứ khi nào các quốc gia thành viên UNCLOS cảm thấy còn có một khoảng trống, một cơ hội để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của UNCLOS, thì họ có thể tiếp tục ngồi lại với nhau, đàm phán để ký kết ra những hiệp định thực thi.
Mục tiêu cao cả của BBNJ là bổ sung UNCLOS nhằm bảo vệ sự đa dạng của sinh vật biển. Nguồn gen biển, sự đa dạng của sinh vật biển ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia cũng trở nên vô cùng quan trọng trong bối cảnh khoa học kỹ thuật phát triển ngày nay.
Nguồn gen biển không chỉ đóng vai trò bảo tồn đa dạng sinh học mà còn đóng góp cho nhiều ngành công nghệ làm đẹp và chăm sóc sức khỏe cho con người. Làm sao để nguồn gen đó được sử dụng bền vững? Làm sao lợi ích nguồn gen đó được phân đồng đều giữa các quốc gia và được bảo tồn cho những thế hệ mai sau? Đó là sứ mệnh của BBNJ.
Nhờ vậy, UNCLOS có hy vọng rằng không phải BBNJ là văn kiện cuối cùng, mà là “cánh tay kéo dài”, là một hiệp định thực thi. Sẽ còn có những hiệp định thực thi mới trong tương lai nếu các quốc gia cảm thấy cần bổ sung khuôn khổ pháp lý để hoàn thiện thêm cho UNCLOS.
PGS.TS Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao. |
Việt Nam là quốc gia tham gia UNCLOS và phê chuẩn UNCLOS từ rất sớm. Bà đánh giá như thế nào về nỗ lực của Việt Nam trong việc duy trì sức sống UNCLOS trong hơn 30 năm qua?
Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập của UNCLOS, tham gia đàm phán Công ước từ năm 1977, là một trong những nước thành viên phê chuẩn Công ước trước khi có hiệu lực vào năm 1994.
Suốt quá trình thực thi 31 năm qua, Việt Nam luôn tuân thủ và thực thi UNCLOS một cách thiện chí và đầy đủ. Trên thực tế, Việt Nam đã ban hành những văn bản luật nhằm nội luật hóa nghĩa vụ và cam kết của Việt Nam đối với UNCLOS. Những yêu sách về biển của Việt Nam cũng được hoạch định theo UNCLOS.
Đồng thời, Việt Nam đã, đang và sẽ nỗ lực giải quyết những tranh chấp biển dựa trên các quy định của UNCLOS. Đến thời điểm hiện nay, rất tự hào, Việt Nam dựa trên các quy định của UNCLOS và phân định được biển với Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ, phân định được biển với Thái Lan, Indonesia; Việt Nam hợp tác với Malaysia để có vùng khai thác dầu khí chung, có những đệ trình chung về thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên hợp quốc.
Tất cả những kết quả đó đạt được dựa trên tinh thần Việt Nam là thành viên của UNCLOS, luôn tuân thủ một cách thiện chí, hiệu quả và tích cực với tất cả những cam kết trong khuôn khổ UNCLOS.
Đại sứ New Zealand tại ASEAN Joanna Jane Anderson: Thịnh vượng và an ninh biển phụ thuộc vào việc duy trì ổn định và tôn trọng luật biển quốc tế như được phản ánh trong UNCLOS. New Zealand sẵn sàng hợp tác với các nước để củng cố tính phổ quát và nhất quán của UNCLOS. |
Việt Nam là thành viên chủ động và tích cực trong ASEAN. Hiện nay, ASEAN cũng đang rất nỗ lực thúc đẩy UNCLOS. Theo bà, việc cộng hưởng tiếng nói như vậy có ý nghĩa thế nào trong việc duy trì sứ mệnh của Công ước?
Có thể nói, ASEAN là khu vực rất tiến bộ, đặt trong tổng thể cả các quốc gia trên thế giới. 9/10 các quốc gia ASEAN đã là thành viên của UNCLOS, duy nhất một quốc gia hiện nay chưa phải là thành viên, nhưng tôi được biết quốc gia này cũng đang xem xét tham gia UNCLOS một cách tích cực.
Trên thực tế, những tranh chấp phát sinh, những vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia ASEAN đều đã và đang được giải quyết dựa trên khuôn khổ UNCLOS. Các quốc gia ASEAN cũng rất tích cực sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ của UNCLOS để giải quyết những bất đồng với nhau.
Trong khuôn khổ của UNCLOS có những điều khoản rất quan trọng đối với ASEAN, ví dụ như khuôn khổ về hợp tác trong vùng biển nửa kín. Biển Đông cũng được coi là một trong những vùng biển nửa kín. Hiện nay, các thành viên ASEAN đang cam kết cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ hợp tác được UNCLOS quy định.
Không chỉ là hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, các thành viên ASEAN còn cam kết tích cực thúc đẩy những hoạt động, ví dụ như phát triển kinh tế biển xanh.
Gần đây nhất, vào tháng 12/2023, các Ngoại trưởng ASEAN đã cùng nhau ra Tuyên bố Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN về duy trì và thúc đẩy ổn định không gian biển ở Đông Nam Á. Đây là động thái vô cùng quan trọng, một mặt thể hiện ý chí quyết tâm của các quốc gia ASEAN trong việc duy trì hòa bình và ổn định tại các vùng biển ở khu vực Đông Nam Á. Mặt khác, cũng cho thấy các quốc gia ASEAN nhận thức được vai trò của biển trong kết nối, phát triển kinh tế, cũng như thúc đẩy phát triển bền vững.
Bình luận (0)