Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm chế biến, chế tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội cơ sở Hoà Lạc _Ảnh: TTXVN
Những kết quả đáng ghi nhận
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua 35 năm đổi mới; công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tiềm lực quốc gia, dân tộc được tăng cường về mọi mặt. Trong nửa đầu nhiệm kỳ, đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các chủ trương lớn trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về giáo dục, đào tạo vẫn được cả hệ thống chính trị tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao, tạo sự chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đáng ghi nhận.
Trước hết, hệ thống chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo được rà soát, cập nhật và tiếp tục hoàn thiện, từng bước tháo gỡ các nút thắt, vướng mắc, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở các cấp học, trình độ. Trong nửa đầu nhiệm kỳ, đã có trên 100 văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn, chỉ đạo(1) được ban hành, trong đó có nhiều văn bản quan trọng, như Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045… Nhiều chính sách được rà soát, bổ sung, ban hành mới, như quy định về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Chương trình “Hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022 – 2030”…
Hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển, cơ hội tiếp cận giáo dục có chất lượng được mở rộng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân. Cả nước có 37.619 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập; 18.557 trung tâm giáo dục thường xuyên; 4 trường dự bị đại học; 242 cơ sở giáo dục đại học(2); 1.888 cơ sở giáo dục nghề nghiệp(3)…
Về giáo dục mầm non, tỷ lệ huy động trẻ đến trường đạt 70,4%(4), trong đó cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Có 56/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành nghị quyết của hội đồng nhân dân, quy định chi tiết chính sách đối với giáo dục mầm non(5).
Về giáo dục phổ thông, việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Nghị quyết số 88/2014/QH13, ngày 28-11-2014, của Quốc hội, “Về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”, đã tạo chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đáng ghi nhận. Chương trình giáo dục phổ thông mới được ban hành năm 2018, triển khai trên phạm vi cả nước từ năm học 2020 – 2021 theo đúng lộ trình quy định tại Nghị quyết số 51/2017/QH14, ngày 21-11-2017, của Quốc hội, về “Điều chỉnh lộ trình thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết số 88/2014/QH13, ngày 28-11-2014, của Quốc hội, “Về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”. Chương trình đã thay đổi từ truyền thụ kiến thức sang định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; xác định rõ 5 phẩm chất và 10 năng lực chủ yếu, cốt lõi cần phát triển đối với học sinh phổ thông; đổi mới đồng bộ về nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Nội dung các môn học được xây dựng theo hướng giảm tải, tăng cường thực hành, gắn với thực tiễn đời sống. Hệ thống sách giáo khoa, tài liệu giáo dục được tổ chức biên soạn, thẩm định, phê duyệt, in và phát hành cơ bản đúng tiến độ, đáp ứng nhu cầu dạy và học. Chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục được nâng lên. Học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo, giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, kiểm tra, định hướng. Tỷ lệ trẻ em khuyết tật có khả năng học tập được tiếp cận với giáo dục và tham gia học tập ở cấp tiểu học và trung học cơ sở tăng lên.
Đội ngũ nhà giáo được tiếp tục chăm lo, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tính đến hết năm học 2022 – 2023, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn theo Luật Giáo dục (năm 2019) của cấp trung học cơ sở là 90,3%, cấp trung học phổ thông là 99,9%(6). Năng lực sư phạm của phần lớn giáo viên được nâng lên, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cơ bản về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
Hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu tư. Năm học 2022 – 2023, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 85%(7). Tỷ lệ trường có thư viện ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông lần lượt đạt 92,9%, 88,9% và 86,4%(8). Đã huy động được nhiều tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục tư thục, hỗ trợ kinh phí cải thiện cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị dạy học, biên soạn sách giáo khoa.
Không gian đọc sách, tương tác và sinh hoạt đội tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học và trung học cơ sở Đoàn Kết (huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn) _Nguồn: TTXVN
Quy mô và mạng lưới các cơ sở giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân. Trong năm học 2022 – 2023, có gần 16,5 triệu lượt người học tham gia các lớp chuyên đề phổ biến cập nhật kiến thức, kỹ năng và các lớp bồi dưỡng thường xuyên khác tại các trung tâm học tập cộng đồng (tăng 2.066.770 lượt người học so với năm học 2021 – 2022 và tăng hơn 2.500.000 lượt người học so với năm học 2020 – 2021); huy động được 17.367 người học các lớp xóa mù chữ giai đoạn 1 (tăng 6.366 người so với năm học 2021 – 2022) và 15.125 người học các lớp xóa mù chữ giai đoạn 2 (tăng 6.268 người so với năm học 2021 – 2022). Đến nay, cả nước có 76,19% đơn vị cấp tỉnh; 93,62% đơn vị cấp huyện và 97,67% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ người trong độ tuổi 15 tuổi – 60 tuổi biết chữ mức độ 1 và mức độ 2 đạt lần lượt là 98,85% và 97,29%(9).
Giáo dục đại học tiếp tục phát triển về quy mô và chất lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Số lượng cơ sở giáo dục đại học tăng dần, năm học 2022 – 2023(10) đã vượt 18 trường so với quy mô được xác định trong quy hoạch theo Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg, ngày 26-6-2013, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020”. Mô hình quản lý đối với các cơ sở giáo dục đại học khá đa dạng(11). Quy mô đào tạo tăng dần trong 10 năm qua, đạt xấp xỉ 2,1 triệu sinh viên đại học và 120 nghìn học viên sau đại học, bảo đảm số lượng và cơ cấu trình độ nhân lực phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 – 2020. Cơ cấu ngành đào tạo dịch chuyển tích cực, thích ứng nhanh nhu cầu của thị trường lao động; số sinh viên các ngành kỹ thuật và công nghệ tăng đáng kể; nhiều ngành mới được mở đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học, công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học được tăng cường. Một số trường được đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại, đáp ứng tốt nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Quy mô và chất lượng giảng viên được nâng lên. Gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng công trình công bố trong nước và quốc tế, số sáng chế, tài sản trí tuệ của đội ngũ giảng viên đại học tăng dần qua các năm(12).
Chất lượng giáo dục đại học được nâng lên, từng bước tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế. Đến tháng 7-2023, tỷ lệ cơ sở giáo dục đại học được kiểm định là 79,4%; tỷ lệ chương trình đào tạo được kiểm định là 13% (trong đó, có 6% được kiểm định quốc tế). Theo kết quả xếp hạng các quốc gia về lĩnh vực giáo dục năm 2021 của Tạp chí U.S News (đơn vị xếp hạng uy tín nhất của Mỹ về khía cạnh học thuật của các trường đại học)(13), Việt Nam xếp thứ 59, tăng 5 bậc so với năm 2020. Một số cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp từng bước được cải thiện và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động; tỷ lệ sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm duy trì ở mức cao(14); niềm tin của người học và xã hội vào chất lượng và hiệu quả đào tạo được củng cố(15).
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp được hình thành theo hướng mở, liên thông, cơ bản phù hợp với các nước trên thế giới. Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được ban hành, tạo cơ sở để sắp xếp, tinh gọn đầu mối, ưu tiên các nguồn lực đầu tư. Chương trình đào tạo, cơ sở vật chất và trình độ, năng lực đội ngũ nhà giáo từng bước được chuẩn hóa, hiện đại hóa. Nhiều dự án, đề án hợp tác với các tổ chức, đối tác quốc tế được ký kết và triển khai. Hoạt động kết nối cung – cầu lao động được quan tâm. Tỷ lệ người lao động qua đào tạo nghề có bằng cấp, chứng chỉ và tỷ lệ người lao động có việc làm phù hợp với kỹ năng nghề và trình độ đào tạo tăng. Kết quả của giáo dục nghề nghiệp đã góp phần quan trọng hình thành đội ngũ lao động lành nghề, xây dựng giai cấp công nhân, nông dân hiện đại phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm, sáng tạo _Nguồn: TTXVN
Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận, việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, thể chế và chính sách phát triển giáo dục, đào tạo chưa được ban hành đồng bộ. Công tác ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện còn bất cập, một số văn bản chưa bảo đảm yêu cầu về tiến độ và chất lượng, có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu của thực tiễn. Các chiến lược, quy hoạch quan trọng liên quan tới giáo dục, đào tạo thời kỳ 2021 – 2030 chậm được phê duyệt, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non chưa đồng đều giữa các vùng, miền, khu vực, địa bàn; chưa bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng giữa các đối tượng, nhóm yếu thế. Công tác quy hoạch, đầu tư, xây dựng cơ sở giáo dục mầm non tại nhiều địa phương chưa theo kịp yêu cầu phát triển và nhu cầu của người dân. Công tác quản lý đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất tại các cơ sở giáo dục mầm non, điểm trông giữ trẻ, nhất là khối ngoài công lập còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 còn nhiều bất cập, thời gian chuẩn bị ngắn, công tác bảo đảm các điều kiện về giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Việc biên soạn, thực nghiệm, thẩm định, cung ứng, phát hành, lựa chọn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới còn nhiều bất cập. Nhận thức, thói quen của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và học sinh về phương pháp giáo dục, thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập chậm thay đổi, chưa theo kịp yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới. Việc tổ chức hoạt động giáo dục và các môn học, như mỹ thuật, âm nhạc, chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Việc xây dựng các tổ hợp môn học tại cấp trung học phổ thông còn bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu định hướng nghề nghiệp và nhu cầu của học sinh. Kết quả đổi mới phương pháp dạy và học ở nhiều cơ sở giáo dục chưa cao, nhất là ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và thiếu giáo viên dạy các môn học mới diễn ra phổ biến. Cả nước còn thiếu 62.877 giáo viên phổ thông(16); thừa cục bộ 5.091 giáo viên(17). Cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa phù hợp; chất lượng giáo viên không đồng đều. Việc tuyển dụng giáo viên còn gặp khó khăn, vướng mắc, nhất là giáo viên các môn âm nhạc, mỹ thuật đạt chuẩn.
Ngân sách nhà nước chưa bảo đảm được đầy đủ nhu cầu triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; tỷ lệ chi thường xuyên cho giáo dục chủ yếu là chi lương; chi dành cho các hoạt động giáo dục nhìn chung thấp, không đáp ứng được yêu cầu của Chương trình. Hầu hết địa phương, nhất là những nơi chưa cân đối được ngân sách, gặp khó khăn về kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Số phòng học chưa được kiên cố hóa còn lớn, tập trung chủ yếu ở những vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Còn thiếu nhiều phòng học, nhất là ở khu vực đô thị, địa bàn có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất. Tỷ lệ đáp ứng thiết bị dạy học theo chuẩn quy định trên phạm vi cả nước thấp, trung bình chỉ đáp ứng được 54,3%.
Thứ tư, chất lượng giáo dục thường xuyên còn hạn chế, chất lượng “đầu vào” thấp. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng và bất cập về cơ cấu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu. Tỷ lệ huy động người học xóa mù chữ ở vùng biên giới, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn còn thấp, kết quả xóa mù chữ chưa bền vững. Công tác điều tra, rà soát số người mù chữ chưa được coi trọng, số liệu chưa được cập nhật thường xuyên và chưa chính xác.
Thứ năm, việc xây dựng, ban hành quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chậm tiến độ. Số lượng và quy mô các cơ sở giáo dục đại học còn hạn chế, phát triển không đồng đều; nhiều trường quy mô nhỏ, lĩnh vực đào tạo hẹp và hoạt động kém hiệu quả. Quy mô đào tạo và tỷ lệ sinh viên đại học/vạn dân thấp hơn một số nước có điều kiện tương đồng trong khu vực và trên thế giới(18). Quy mô đào tạo sau đại học ở nước ta còn thấp và không tăng trong nhiều năm(19), đặc biệt là đào tạo sau đại học khối ngành tích hợp khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học (STEM) có xu hướng giảm mạnh(20). Một số ngành quan trọng đối với phát triển bền vững của đất nước, như khoa học tự nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản… gặp khó khăn trong tuyển sinh. Điều kiện hạ tầng của hầu hết cơ sở giáo dục đại học Việt Nam còn ở mức độ thấp so với các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực và thế giới. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên và tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đều thấp so với chuẩn mực chung của thế giới(21). Trong toàn hệ thống, còn khoảng 40% cơ sở giáo dục đại học có tỷ lệ dưới 20% giảng viên cơ hữu đạt trình độ tiến sĩ trở lên.
Chất lượng giáo dục của các cơ sở đào tạo không đồng đều giữa các khối ngành; chênh lệch rõ rệt giữa nhóm các trường đầu ngành tại các thành phố lớn và các trường ở các tỉnh. Khoảng cách giữa kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng đào tạo trong nhà trường với yêu cầu thực tiễn của nhà tuyển dụng còn khá xa. Nguồn nhân lực được đào tạo chỉ đáp ứng chủ yếu nhu cầu đại trà, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hoạt động của cơ sở giáo dục đại học chịu sự quản lý của nhiều cơ quan khác nhau, dẫn tới khó khăn, vướng mắc trong đổi mới quản trị đại học, nhất là trong thực hiện tự chủ về tài chính và về tổ chức bộ máy, nhân sự. Kinh phí đầu tư cho giáo dục đại học thấp, có xu hướng bị cắt giảm; chưa xác định được chiến lược đầu tư hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm để phát triển các cơ sở giáo dục đại học. Chính sách xã hội hóa giáo dục chưa đạt hiệu quả, chưa thực sự khuyến khích các thành phần xã hội tham gia đầu tư phát triển giáo dục đại học. Hoạt động nghiên cứu của các trường đại học chưa gắn nhiều với thực tiễn, yêu cầu của thị trường, khả năng ứng dụng thấp. Tỷ lệ bài báo, công trình khoa học công bố trên số giảng viên của Việt Nam còn thấp so với trung bình trên thế giới(22).
Thứ sáu, quy mô giáo dục nghề nghiệp còn nhỏ; cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ngành, nghề mới, kỹ năng tiên tiến. Gắn kết giữa Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Hình thức, phương pháp tổ chức đào tạo chậm đổi mới, chưa đa dạng, linh hoạt để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường lao động. Công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động chưa được chú trọng, chưa tạo được cơ hội và khuyến khích người lao động tham gia học tập suốt đời. Việc chuyển giao, nhân rộng các chương trình theo chuẩn quốc tế còn khó khăn, thiếu đồng bộ. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp thiếu tích cực, chủ động trong chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề, đổi mới chương trình đào tạo. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chưa tương xứng; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, thí nghiệm, thực hành nghề còn nghèo nàn.
Những hạn chế nêu trên chủ yếu là do nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, giáo viên còn hạn chế. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan tham mưu ở một số địa phương chưa rõ; chưa quyết liệt, kịp thời xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh. Công tác tuyên truyền, quán triệt chưa được chú trọng đúng mức. Công tác dự báo, lập kế hoạch, lộ trình đổi mới chưa sát. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương và địa phương chưa chặt chẽ, thường xuyên. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Chính sách, chế độ đãi ngộ chưa đáp ứng yêu cầu thu hút, giữ chân đội ngũ giáo viên, giảng viên, nhất là đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Chưa có chính sách đột phá để khuyến khích, thu hút nguồn lực ngoài nhà nước tham gia phát triển giáo dục, đào tạo.
Sinh viên thực hành lập trình điều khiển cánh tay robot tại Trung tâm đào tạo sản xuất thông minh HNIVC-FUNA của Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội phối hợp với đối tác quốc tế thành lập _Nguồn: TTXVN
Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm từ nay đến cuối nhiệm kỳ
Trước yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn mới, để thực hiện hiệu quả hơn nữa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, từ nay đến cuối nhiệm kỳ cần tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là vấn đề đặc biệt quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, có phạm vi tác động lớn. Do đó, để bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự chủ động, sáng tạo của nhân dân và toàn xã hội. Trong thời gian tới, cần tăng cường thực hiện một cách triệt để, sâu rộng và hiệu quả hơn công tác tuyên truyền, quán triệt về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đối với đội ngũ lãnh đạo các cấp, cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên, tạo sự thống nhất, thông suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện; tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, đẩy mạnh tự chủ, bảo đảm vai trò kiến tạo để phát triển giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nội bộ của cơ sở giáo dục gắn với trách nhiệm giải trình. Đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, hội nhập quốc tế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ của nước ngoài cho giáo dục và đào tạo.
Tổng kết, đánh giá việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp tục khẳng định và làm rõ vai trò quản lý nhà nước đối với các trường đại học, đặc biệt là vấn đề quản lý chất lượng; phát triển các trung tâm đào tạo, nghiên cứu mũi nhọn; phát triển các lĩnh vực đặc thù, như đầu tư cho khoa học cơ bản, phục vụ lực lượng vũ trang, các ngành đặc biệt, như sư phạm, ngành y, khí tượng…
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành. Kịp thời hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của cơ sở giáo dục và đào tạo; gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm nghiên cứu mạnh. Kịp thời ban hành các văn bản quan trọng, có tính chất định hướng, như Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn đến năm 2030; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm; quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về lĩnh vực giáo dục, đào tạo, như phân định rõ công tác quản lý nhà nước và quản trị của các cơ sở giáo dục theo Kết luận số 51-KL/TW, ngày 30-5-2019, của Ban Bí thư, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 4-5-2023, của Ban Bí thư, “về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành các nội dung mới trong Luật Giáo dục năm 2019 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018. Sơ kết, đánh giá khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Giáo dục nhằm tháo gỡ vướng mắc liên quan đến cơ chế tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục. Sớm xây dựng và ban hành Luật Nhà giáo để cụ thể hóa chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành giáo dục.
Ba là, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cần gắn kết chặt chẽ hơn nữa với các nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Đối với giáo dục mầm non, cần tập trung thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 5-1-2024, của Bộ Chính trị, “về công tác phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc, xóa mù chữ cho người lớn và đẩy mạnh phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông”, trong đó ưu tiên phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi theo hướng tiếp tục đầu tư phát triển, mở rộng mạng lưới trường mầm non công lập; đồng thời, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em. Cải thiện năng lực giáo viên mầm non, tăng lương và thu nhập cho giáo viên mầm non. Đẩy mạnh xã hội hóa; bổ sung, hoàn thiện các chính sách theo hướng hấp dẫn hơn để thu hút đầu tư phát triển hệ thống trường mầm non ngoài công lập. Quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, nhất là các nhóm trẻ độc lập; hỗ trợ đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ cho giáo viên dạy tại các nhóm trẻ độc lập, lớp mẫu giáo độc lập, lớp mầm non độc lập.
Đối với giáo dục phổ thông, tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo Nghị quyết số 686/NQ-UBTVQH15, ngày 18-9-2023, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, “về giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”. Trong đó, tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng thừa, thiếu giáo viên; bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, phương thức thi, kiểm tra, đánh giá. Triển khai hiệu quả Chỉ thị số 08/CT-TTg, ngày 1-5-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “về việc tăng cường triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường”. Đây là chủ trương lớn cần được kiên trì tổ chức, triển khai thực hiện.
Đối với giáo dục đại học, cần thực hiện các giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục đại học gắn với tăng quy mô phù hợp, có cơ cấu ngành, nghề hợp lý. Một trong những giải pháp trọng tâm là khắc phục vướng mắc, bất cập trong các quy định về tự chủ đại học, theo hướng đi vào chiều sâu, thực chất gắn với thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch thông tin. Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao làm giảng viên đại học. Có chính sách học bổng hợp lý để thu hút sinh viên giỏi vào một số ngành quan trọng, phục vụ phát triển bền vững đất nước. Tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Đầu tư, phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, giảng dạy cho một số trường đại học trọng điểm; phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp; chú trọng chuyển đổi số….
Đối với giáo dục nghề nghiệp, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; xác định rõ nhóm ngành, nghề cơ bản cần đào tạo; bảo đảm chất lượng đào tạo nghề, nhất là kỹ năng, kiến thức nền tảng để tham gia thị trường lao động. Đa dạng hóa phương thức đào tạo, phát triển chương trình đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, phân bổ hợp lý về cơ cấu ngành, nghề, trình độ, vùng, miền, đáp ứng chuẩn đầu ra tiệm cận với chuẩn khu vực và thế giới. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động; khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo. Đẩy mạnh dự báo nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp, ưu tiên ngành, nghề công nghệ mới, công nghệ cao.
Bốn là, tăng cường đầu tư, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Tập trung nguồn lực, tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, bảo đảm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Có chiến lược đầu tư bài bản, nghiêm túc cho giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp tương xứng với các nước phát triển trên thế giới, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực xã hội, thực hiện lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia để tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bảo đảm thực hiện tốt Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, trong đó có giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số. Tiếp tục triển khai lộ trình nâng chuẩn trình độ đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở theo quy định.
Có chính sách thỏa đáng để thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo mang tầm khu vực, quốc tế; phát triển một số ngành đặc thù, cơ sở giáo dục đại học có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ chiến lược quốc gia, nhiệm vụ phát triển vùng của đất nước. Xem xét cụ thể hóa cơ chế hỗ trợ đầu tư theo dự án, chương trình, mục tiêu và đặt hàng của Nhà nước trên cơ sở năng lực, uy tín và chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các nhà trường, không phân biệt loại hình sở hữu của cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp./.
PGS, TS NGUYỄN ĐẮC VINH
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội
—————————–
(1) Quốc hội đã ban hành 5 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành ban hành 7 nghị định, 17 quyết định, 4 chỉ thị, 65 thông tư. Ngoài ra, còn có 20 quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
(2) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(3) Xem: Báo cáo số 66/BC-LĐTBXH, ngày 30-5-2023, của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV
(4) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(5) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(6) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(7) Cụ thể: đối với cấp mầm non: 79,5%; đối với cấp tiểu học: 82,0%; đối với cấp trung học cơ sở: 93,7%; đối với cấp trung học phổ thông: 96,4% (Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo)
(8) Xem: Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11-8-2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”
(9) Xem: Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022 – 2023, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2023 – 2024, ngày 18-8-2023, của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(10) Chưa tính các trường thuộc khối công an, quân đội; đồng thời, 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng có tổng cộng 37 trường đại học thành viên, cụ thể: Đại học Quốc gia Hà Nội có 9 trường đại học thành viên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có 7 trường đại học thành viên, Đại học Thái Nguyên có 7 trường đại học thành viên, Đại học Đà Nẵng có 6 trường đại học thành viên và Đại học Huế có 8 trường đại học thành viên
(11) Hai đại học quốc gia trực thuộc Chính phủ có nhiều trường đại học thành viên, viện nghiên cứu thành viên và các trường, khoa trực thuộc. Ba đại học vùng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu thành viên, trường, khoa trực thuộc và có thể có cả trung tâm đào tạo từ xa. Các trường đại học trực thuộc các bộ, ngành khác nhau có cơ cấu tổ chức bao gồm các khoa và bộ môn trực thuộc. Cả nước có 68 trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện đào tạo các trình độ của giáo dục đại học (trong đó, có 28 trường thuộc lực lượng vũ trang, 8 trường thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, nhưng không phải là cơ sở giáo dục đại học và 32 trường thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng)
(12) Số lượng công trình khoa học trên tạp chí Web of Science (WoS) tăng từ 2.107 năm 2016 lên 7.502 năm 2020 (tăng 3,56 lần); số bài báo công bố trên tạp chí Scopus tăng từ 4.735 bài năm 2016 lên 19.888 bài năm 2020 (tăng 4,20 lần)
(13) Kết quả xếp hạng giáo dục quốc gia của Tạp chí U.S News dựa trên khảo sát toàn cầu về ba thuộc tính cùng trọng số của mỗi quốc gia: có hệ thống giáo dục công phát triển tốt; mọi người có cân nhắc theo học đại học ở đó hay không; quốc gia đó có cung cấp nền giáo dục chất lượng hàng đầu hay không
(14) Theo báo cáo khảo sát độc lập của Trung tâm cung ứng và hỗ trợ phát triển nhân lực (Bộ Giáo dục và Đào tạo), tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm có xu hướng tăng trong 3 năm 2019 – 2021 và đạt trung bình toàn quốc trên 90%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2020 – 2022 tỷ lệ thất nghiệp của người lao động có trình độ đại học trở lên giảm từ 4,26% xuống 3,16%; tỷ lệ này đối với người tốt nghiệp thạc sĩ giảm từ 1,3% xuống 0,6%
(15) Kết quả tuyển sinh phản ánh rõ nét khả năng có việc làm của sinh viên tốt nghiệp và niềm tin của xã hội đối với chất lượng, hiệu quả đào tạo. Sau một giai đoạn tăng trưởng “nóng”, quy mô tuyển sinh và đào tạo đạt cao nhất vào năm 2014, nhưng đã giảm mạnh 4 năm liên tiếp và xuống thấp nhất vào năm 2018. Nguyên nhân là do nguồn lực chưa được đầu tư phát triển tương xứng với quy mô. Hệ thống giáo dục đại học đã nhận rõ điều này, cùng với nỗ lực đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học, đã huy động nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng, do vậy, từ năm 2019 kết quả tuyển sinh, quy mô đào tạo đã hồi phục và tăng trở lại với mức tăng khá
(16) Trong đó, cấp tiểu học thiếu 32.943, cấp trung học cơ sở thiếu 18.097, cấp trung học phổ thông thiếu 11.837 giáo viên (Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11- 8-2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”)
(17) Trong đó, cấp tiểu học thừa cục bộ 2.302 giáo viên, cấp trung học cơ sở thừa cục bộ 2.650 giáo viên, cấp trung học phổ thông thừa cục bộ 139 giáo viên (Báo cáo số 584/BC-ĐGS, ngày 11- 8-2023, của Đoàn giám sát Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về “Việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Nghị quyết số 51/2017/QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”)
(18) Tổng số sinh viên đại học của Việt Nam năm 2021 là khoảng 2,1 triệu, đạt 215 sinh viên/vạn dân. So với khu vực Đông Nam Á (ASEAN), tỷ lệ này tương đương với Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po (sau Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a và Thái Lan), nhưng thấp hơn mức trung bình của các quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): 290/vạn dân.
(19) Quy mô đào tạo sau đại học năm 2021 của Việt Nam đạt xấp xỉ 110.000 học viên cao học và 12.000 nghiên cứu sinh, tính tỷ lệ trên dân số chưa bằng 1/3 so với Ma-lai-xi-a và Thái Lan, chỉ bằng 1/2 so với Xin-ga-po và Phi-líp-pin, xấp xỉ 1/9 lần so với mức trung bình của các nước OECD
(20) Trình độ thạc sĩ chỉ đạt hơn 2%, trình độ tiến sĩ chỉ đạt xấp xỉ 0,3%
(21) Tỷ lệ sinh viên “thô” (bao gồm cả sau đại học) trên giảng viên của nước ta là 25,6. Theo báo cáo “Education at a Glance 2022” của OECD: Tỷ lệ “quy chuẩn” sinh viên trên giảng viên trung bình ở các nước OECD là 15 (ở các trường công lập) và 17 (ở các trường tư thục). Còn theo số liệu thống kê của Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) (http://data.uis.unesco.org/) thì tỷ lệ “thô” sinh viên trên giảng viên trung bình ở các nước OECD là 14, trong khi tỷ lệ đó ở Xin-ga-po là 13 và Ma-lai-xi-a là 14. Về trình độ giảng viên, theo số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2020 – 2021 của Vương quốc Anh (https://www.hesa.ac.uk/data-and-analysis/staff/table-8), tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 54,4%. Từ năm 2010, Ma-lai-xi-a có tỷ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên các trường đại học là 73%; Sri Lan-ka năm 2015 là 55%. (Báo cáo số 2092/BC-UBVHGD15, ngày 20-12-2023, của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổng thuật Hội thảo Giáo dục 2023 “Thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học”)
(22) Số lượng công trình công bố trên giảng viên ở mức khoảng 0,24 bài ISI/Scopus/giảng viên/năm, so với năng lực công bố trung bình trên thế giới (năm 2010) từ 1-8 bài báo ISI/Scopus/năm tùy theo nhóm ngành