Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng giai cấp nông dân
Tháng 10-1923, tham luận ở Hội nghị quốc tế nông dân lần thứ nhất, tại Mát-xcơ-va (Nga), Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Nông dân trong các thuộc địa của Pháp bị hai tầng bóc lột”(1). Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” đăng trên báo Cứu quốc dưới bút danh Đ.X, từ ngày 16-1 đến ngày 23-9-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc đặc điểm, tình hình nông dân dưới chế độ thực dân và phong kiến: “Nông dân thì nghèo khổ đã sẵn, lại bị sưu cao, thuế nặng. Địa chủ lấy địa tô quá nặng, cho vay cắt họng, làm cho nông dân nhiều khi phải bán vợ đợ con. Nếu gặp hạn hán bão lụt, là chết đói đầy đường”(2).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giai cấp nông dân, với tư cách là lực lượng cách mạng, là lực lượng có sức mạnh “long trời lở đất”, nếu như được tổ chức lại dưới sự dẫn dắt của đảng cộng sản; đồng thời, Người phân tích rõ, nhấn mạnh nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, có lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc. Trong lịch sử dân tộc, giai cấp nông dân luôn là lực lượng chủ lực trong các cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản năm 1923, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Quần chúng nông dân bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước”(3); do đó, khi xác định vai trò quan trọng của giai cấp nông dân, Người khẳng định: “Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực. Đó là một sự thực hiển nhiên đối với cả hai cuộc cách mạng – cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản”(4).
Nhận thức rõ vai trò của nông dân, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam vừa được thành lập, Đảng đã có chủ trương vận động nông dân đi theo cách mạng và sớm cử đảng viên đi sâu vào các vùng nông thôn để vận động, tập hợp nông dân. Chính vì thế, nông dân đã tin tưởng theo Đảng làm nên thắng lợi của các phong trào cách mạng giai đoạn 1930 – 1931, 1936 – 1939, 1939 – 1945, mà đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc tháng 11-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh”(5) cho độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đa số dân ta là nông dân. Mỗi việc đều phải dựa vào nông dân. Nông dân giác ngộ hăng hái thì kháng chiến mới mau thắng lợi, kiến quốc mới chóng thành công, nông dân mới được giải phóng”(6).
Người còn chỉ rõ: “Nông dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân./ Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”(7). Đánh giá rõ vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nghị quyết Đại hội III của Đảng tháng 9-1960 khẳng định: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về thực chất là cuộc cách mạng nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”(8). Trong bài “Gửi Nông gia Việt Nam” đăng trên tờ báo Tấc đất số 1 ngày 7-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn); nước ta thì “dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”(9). Thực tế cho thấy, nông dân là lực lượng sản xuất trực tiếp tạo ra lương thực để nuôi sống xã hội. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề nông dân và nông nghiệp: “Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp phần lớn./ Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”(10). Người khẳng định: “Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sĩ sản xuất, cần phải cố gắng như chiến sĩ ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã phải sản xuất tốt để bộ đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng. Vì vậy, nhiệm vụ của các hợp tác xã nông nghiệp, của bà con xã viên, của cán bộ công tác ở nông thôn là rất quan trọng”(11). Rõ ràng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy rõ vị trí, vai trò của việc hợp tác, liên kết trong nông nghiệp. Tuy nhiên, Người khẳng định, giai cấp nông dân phải có giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến nhất – lãnh đạo, dẫn dắt thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thực hiện cho được liên minh công – nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”(12). Người đã phân tích rất sâu sắc về liên minh công – nông, nhấn mạnh liên minh quần chúng nông dân đông đảo với giai cấp công nhân là cơ sở chủ yếu để có thể lập ra một mặt trận dân tộc rộng rãi và vững chắc.
Trên cơ sở đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp nông dân đã có nhiều đóng góp quan trọng, to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, nông dân cùng quân dân cả nước đã làm nên chiến thắng Mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước.
Thực hành dân chủ ở nông thôn
Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị (khóa VIII), “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Đảng ta đã có nhiều chủ trương đúng đắn về dân chủ, coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nhấn mạnh, nhận thức về dân chủ, thực hành dân chủ của nhân dân, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp có bước chuyển biến tích cực, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được chú trọng, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của người đứng đầu chính quyền ở cơ sở có bước chuyển biến quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền ở cơ sở đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết bức xúc và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người dân.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm khu vực trưng bày sản phẩm và chế biến chè của Hợp tác xã Hảo Đạt, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên _Ảnh: TTXVN
Cụ thể hóa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, các xã, phường, thị trấn triển khai cơ bản đầy đủ những nội dung công khai cho nhân dân biết, bàn thảo, quyết định và giám sát về các dự án, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khu, cụm công nghiệp, dân cư; mức giá bồi thường thu hồi đất; công khai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, chương trình xây dựng nông thôn mới,… Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính theo “cơ chế một cửa”, “một cửa liên thông”, được triển khai tích cực; ý thức trách nhiệm, tinh thần, thái độ phục vụ tổ chức, công dân của đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có nhiều chuyển biến rõ nét. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư kiến nghị, phản ánh, tố cáo, khiếu nại của công dân được chính quyền cơ sở thực hiện nền nếp, mang lại hiệu quả tích cực. Công tác đối thoại với nhân dân được cấp ủy, chính quyền các cấp chú trọng và thực hiện hiệu quả, kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải tỏa bức xúc của người dân, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền ở cơ sở. Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung và thực hiện quy ước, hương ước thôn, bản, tổ dân phố bảo đảm theo quy định, phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa mới. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 ở xã, phường, thị trấn có nơi, có việc còn hình thức, chưa thực chất; trong thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cũng như việc công khai một số chương trình, dự án, công trình ở một số địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ, kịp thời. Việc tiếp thu ý kiến của nhân dân, giải quyết kiến nghị, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ở một số nơi còn chưa kịp thời, chưa gắn với thực hiện kỷ luật, kỷ cương, đúng pháp luật.
Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém nêu trên là do: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 chưa được một số cấp ủy, chính quyền ở cơ sở quan tâm đúng mức; công tác nắm bắt tình hình nhân dân, nhất là những vấn đề mới nảy sinh, nhạy cảm, nổi cộm, bức xúc, còn thiếu kịp thời,… Công tác hòa giải ở cơ sở, xử lý mâu thuẫn phát sinh, tránh tạo thành “điểm nóng” có lúc, có nơi làm chưa tốt, còn để xảy ra một số vụ việc lớn, phức tạp, kéo dài. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật.
Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về xây dựng giai cấp nông dân, xây dựng nông thôn mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(13). Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa XIII, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”(14) đề ra quan điểm đúng đắn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo hướng “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; đồng thời, khẳng định nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết đưa ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đầu tiên là nâng cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn; bảo đảm quyền làm chủ của nông dân và cư dân nông thôn theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành dân chủ ở nông thôn theo Quyết định số 263/QĐ-TTg, ngày 22-2-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025”, các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp, như tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; nâng cao trình độ dân trí, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương xã hội; nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ, sự nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tăng cường hiệu quả sử dụng các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin trong thực hành dân chủ ở cơ sở. Các ban, bộ, ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố ban hành văn bản hướng dẫn cần thiết theo thẩm quyền; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo trong quá trình tổ chức thực hiện. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có vị trí quan trọng trong việc xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện, như nguồn vốn, mục tiêu, nhiệm vụ, phân công rõ trách nhiệm cho các sở, ban, ngành, các huyện, thị xã, thành phố thực hiện. Tiếp tục hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng Chính phủ phát động, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” giai đoạn 2021 – 2025, 2025 – 2030.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nông thôn hiện đại và nông dân văn minh
Một là, xây dựng nông thôn hiện đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh là một vấn đề lớn, cần có lộ trình và bước đi thích hợp, sát thực tiễn ở từng vùng, miền của đất nước. Nội dung xây dựng nông thôn hiện đại chính là thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 và các giai đoạn tiếp theo.
Để xây dựng nông thôn hiện đại, các cấp ủy phải lãnh đạo, chỉ đạo cả hệ thống chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác mọi nguồn lực thực hiện hiệu quả Bộ tiêu chí về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025. Xây dựng nông thôn hiện đại phải có quy hoạch phù hợp theo định hướng phát triển kinh tế – xã hội, với tầm nhìn lâu dài, có các khu chức năng dân sinh, khu công nghiệp, tiểu – thủ công nghiệp và dịch vụ bảo đảm giải quyết được việc làm có thu nhập cao cho cư dân nông thôn, góp phần thực hiện mục tiêu “ly nông không ly hương”, gắn với bảo vệ tốt môi trường; đồng thời, tăng cường công tác quản lý quy hoạch và tổ chức thực hiện theo quy hoạch hiệu quả. Khai thác, phát huy tối đa nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, như giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở văn hóa, thương mại, thông tin và truyền thông, nhà ở khu vực nông thôn… từng bước đồng bộ, chất lượng, hiệu quả. Xây dựng nông thôn hiện đại gắn với những tiến bộ trong thực hiện tiêu chí về thu nhập, giảm nghèo đa chiều, có tỷ lệ lao động được đào tạo nghề cao, phát triển đa dạng các mô hình liên kết, mô hình hợp tác xã, khuyến nông, phát triển làng nghề,… để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Xây dựng nông thôn hiện đại phải gắn với phát triển văn hóa – xã hội – môi trường, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; đồng thời, xây dựng nông thôn hiện đại, gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức có kiến thức, kinh nghiệm, có phẩm chất, đạo đức tốt, luôn gắn bó, gần gũi với nhân dân.
Trên cơ sở đó, từng bước phấn đấu đạt được mục tiêu tổng quát của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới do Thủ tướng Chính phủ phát động. Thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu và nông thôn mới cấp thôn, bản. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, thúc đẩy bình đẳng giới. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn đồng bộ và từng bước hiện đại, bảo đảm môi trường, cảnh quan nông thôn “sáng, xanh, sạch, đẹp, an toàn, giàu bản sắc văn hóa truyền thống, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững”.
Để đạt được mục tiêu to lớn đó, trước hết các bộ, ban, ngành chức năng, cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố cần tăng cường tuyên truyền, quán triệt, triển khai các nghị quyết, quyết định, thông tư, hướng dẫn về xây dựng nông thôn mới; tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức trong mỗi cán bộ, đảng viên, người dân; phát huy, khai thác mọi nguồn vốn, bao gồm vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, vốn trung ương, vốn địa phương, vốn xã hội hóa để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa nông thôn. Đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức lại sản xuất – yếu tố quyết định việc tăng thu nhập của người nông dân. Việc tổ chức lại sản xuất phải gắn kết chặt chẽ với tổ chức lại xã hội nông thôn theo hướng hợp tác, liên kết trong sản xuất, bảo quản, chế biến, kinh doanh nông sản, các sản phẩm làng nghề và phát triển du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng,…
Mô hình du lịch nông nghiệp tại tỉnh Khánh Hòa_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Hai là, xây dựng nông dân văn minh.
Xây dựng nông dân văn minh là vấn đề rất lớn, rất quan trọng của Đảng. Để người nông dân đạt đến trình độ văn minh, đảm nhận được vai trò chủ thể, vị trí trung tâm, thì phải có thời gian, phương pháp, bước đi tích cực, cụ thể. Theo đánh giá của Trung ương, thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng. Tuy nhiên, “Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn còn nhiều bất cập; lao động nông thôn có xu hướng già hóa; năng suất lao động và thu nhập bình quân của cư dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”(15). Người nông dân văn minh trước hết phải là người nông dân có tri thức. Muốn vậy, cấp ủy phải lãnh đạo cả hệ thống chính trị làm tốt công tác tuyên truyền, để mỗi người nông dân chuyển biến được nhận thức của mình về vai trò chủ thể, có tâm thế tự chủ, có kiến thức, kỹ năng, năng lực, bản lĩnh làm chủ bản thân, làm chủ xây dựng, phát triển cộng đồng dân cư nông thôn. Các cơ quan thông tấn báo chí là công cụ sắc bén, thường xuyên chuyển tải thông tin đến người nông dân.
Trên cơ sở đó, các ban, bộ, ngành chức năng của Trung ương, cấp ủy, chính quyền các cấp có các giải pháp đồng bộ, khoa học, sát thực tế với từng vùng, miền nông thôn, để từng bước thực hiện trang bị tri thức cho nông dân. Đảng, Nhà nước sớm bổ sung cơ chế, chính sách để hỗ trợ nông dân tiếp cận; đào tạo kiến thức, huấn luyện kỹ năng, cập nhật kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, trang bị kiến thức mới, khả năng làm chủ máy móc, thiết bị công nghệ,… cho nông dân. Qua đó, người nông dân sẽ tự cập nhật các vấn đề mới phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh, để nghiên cứu, phân tích và giải quyết các yếu tố liên quan đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm; đồng thời, chủ động hơn trong xử lý tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, sử dụng hiệu quả giống mới, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm. Nhà nước tiếp tục bổ sung cơ chế, chính sách để tạo môi trường, điều kiện tốt nhất cho sự gắn kết “bốn nhà”: Nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp. Sự gắn kết này ngày càng chặt chẽ, thì tri thức người nông dân được nâng cao, nông nghiệp sẽ phát triển nhanh, bền vững. Cần nghiên cứu để quy hoạch và phát triển các trường đào tạo cho nông dân, con em nông dân, vì muốn có một nền nông nghiệp chuyên nghiệp, phải có đội ngũ nông dân chuyên nghiệp hóa. Muốn có một nền nông nghiệp tri thức, người nông dân phải được trang bị tri thức cần thiết.
Ngoài trang bị kiến thức về sản xuất, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, hợp tác xã, cần trang bị cho người nông dân kiến thức về văn hóa để họ chủ động tham gia với cộng đồng, tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục – thể thao, rèn luyện sức khỏe, xây dựng đời sống tinh thần ở nông thôn; đồng thời, trang bị kiến thức để người nông dân tự chủ, tự giác đóng góp sức mình nhằm bảo vệ, tôn tạo, phát huy các di sản, truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc anh em ở các vùng, miền trong cả nước. Người nông dân văn minh là người có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường, xây dựng “tình làng, nghĩa xóm”, ủng hộ, tự nguyện xây dựng các tổ hợp tác, hợp tác xã, xây dựng các mối liên kết để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và phát triển toàn diện nông thôn./.
NGUYỄN THẾ TRUNG
Chuyên gia tư vấn Hội đồng Lý luận Trung ương
————————
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 1, tr. 225
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 253
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 221
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 564
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 248
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 56
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 248
(8) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 663
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 134, 246
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 258
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 391
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 38
(14) Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 39
(15) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Sđd, tr. 91