Tiếp tục chuỗi hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo 6 vùng kinh tế – xã hội, ngày 14/7, tại tỉnh Quảng Trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn cho biết: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đều đã có Kế hoạch hành động để triển khai thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 168 của Chính phủ, với mục tiêu xác định: Đến năm 2030, Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển;
Có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao;…
Và tầm nhìn đến năm 2045, Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển; đời sống vật chất và tinh thần của người dân đạt mức cao;…”.
Nhìn nhận về giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Bộ trưởng đánh giá: Chất lượng giáo dục, đào tạo từng bước được nâng cao và đạt được những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận.
Mặc dù vậy, giáo dục và đào tạo của vùng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức như: nhiều chỉ số về phát triển còn thấp hơn mức trung bình của cả nước; chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đồng đều giữa các địa phương trong Vùng, … và vẫn còn đầy thách thức, nhiều khó khăn khác cần tiếp tục nhận diện, có giải pháp phù hợp để khắc phục và phát triển trong thời gian sắp tới.
Báo cáo về tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho biết: Năm học 2021-2022, toàn vùng có 258.255 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông, thường xuyên, tăng 12.598 giáo viên so với năm học 2010-2011. Tuy nhiên, giống như các vùng khác, tỷ lệ giáo viên/lớp các cấp học trong vùng đều thấp hơn định mức theo quy định của Bộ GD&ĐT; cơ cấu giáo viên giữa các môn học, cấp học chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu tại các địa phương, trường học.
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục phổ thông có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh lên lớp ở cấp Tiểu học và cấp THCS có chiều hướng gia tăng và cao hơn bình quân cả nước. Tuy vậy, tỷ lệ học sinh lên lớp cấp THPT của Vùng lại thấp nhất cả nước. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cấp THCS và cấp THPT đều thấp hơn so với quân cả nước.
Giáo dục mũi nhọn của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ ngày càng đạt nhiều kết quả tích cực. Trong giai đoạn 2013 -2023, số học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia của vùng là 5.645 học sinh (đạt 53,3% tổng số thí sinh tham dự, chiếm 23,3% tổng số giải trong cả nước) và 84 giải tại Kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế (chiếm 23,3% tổng số giải của cả nước).
Quy mô đào tạo đại học và sau đại học tăng dần qua các năm, đứng thứ ba trong sáu vùng kinh tế – xã hội. Toàn vùng hiện có toàn vùng có 44 trường đại học. Bình quân hằng năm, có hơn 31.000 sinh viên và hơn 2.400 học viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng.
Bổ sung biên chế giáo viên và có cơ chế chính sách phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo; tiếp tục có chính sách khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội hoá vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo; chính sách phân luồng sau THCS, quan tâm chính sách và nâng cao chất lượng giáo dục thường xuyên…
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh tinh thần của Nghị quyết 26 đặt ra những định hướng phát triển rất quan trọng, mục tiêu cao và kỳ vọng lớn với vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, trong đó xác định giải pháp đột phá là phát triển nguồn nhân lực.
Với định hướng và mục tiêu như vậy, theo Bộ trưởng những nhiệm vụ đặt ra cho ngành Giáo dục rất nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang. “Chúng ta cần xác định kết quả giáo dục sẽ rất quan trọng trong thực hiện thành công Nghị quyết 26”, Bộ trưởng nêu rõ.
Cho rằng vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có các đặc điểm khác với các vùng còn lại, do đó định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của vùng phải có điểm khác, điểm riêng, Bộ trưởng đề cập cụ thể tới một số định hướng.
Theo đó, đây là vùng đa dạng với 3 tiểu vùng rõ nét, vì vậy, ngoài liên kết vùng còn phải quan tâm đến liên kết tiểu vùng. Với một vùng có đường bờ biển dài, từ khoá “biển” phải được nhấn mạnh, tận dụng trong phát triển, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bởi khi kinh tế biển càng phát triển thì nhân lực cho kinh tế biển càng đòi hỏi cao hơn. Kinh tế biển, đảm bảo quốc phòng – an ninh biển phải trở thành nội dung nghiên cứu, đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.
Với sự dạng trong nội bộ vùng, Bộ trưởng cho rằng, giáo dục và đào tạo Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ phải tính đến yếu tố đa dạng này để vừa quan tâm phát triển giáo dục mũi nhọn, vừa tính đến công bằng trong giáo dục cho các vùng miền núi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng hải đảo.
Về các giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Bộ trưởng nhấn mạnh đầu tiên tới việc tập trung quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng.
Trong đó, 2 đại học vùng là Đại học Huế và Đại học Đà Nẵng cần phát triển hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và mạnh của vùng trong thời gian sắp tới. Nghiên cứu để có giải pháp cho các trường đại học địa phương, các trường cao đẳng sư phạm.
Trong viêc quy hoạch, Bộ trưởng cũng đề nghị các địa phương quan tâm quy hoạch đảm bảo đất cho giáo dục mầm non, phổ thông.
Là vùng có tỷ lệ người học đại học thấp nhất trong các vùng kinh tế – xã hội, theo Bộ trưởng các địa phương cần có giải pháp để tăng tỷ lệ này, trong đó có giải pháp về đầu ra, việc làm để gia tăng người học đại học . “Đây là vấn đề dân trí nhưng cũng là nhân lực chất lượng cao”, Bộ trưởng nói, đồng thời lưu ý các địa phương về việc đổi mới công tác phát hiện, bồi dưỡng nhân tài.
Về một số nhiệm vụ trước mắt các địa phương cần tập trung, Bộ trưởng lưu ý tới việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chuẩn bị điều kiện thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 các năm tiếp theo; chuẩn bị tốt cho cho năm học mới, trong đó có vấn đề đảm bảo cung ứng đầy đủ sách giáo khoa.