Một ngày giữa tháng 10, đứng ở đầu con rạch Bà Đài (xã Long Hậu, Lai Vung, Đồng Tháp), ông Nguyễn Văn Măng (50 tuổi, thợ đóng xuồng) hoài niệm một thời làng nghề đóng thuyền 2 bên bờ nhộn nhịp ngày đêm, phát triển hưng thịnh.
Năm 2005, theo thống kê của chính quyền địa phương, 2 bên bờ rạch có khoảng 150 xưởng đóng thuyền, với hơn 1.000 lao động làm việc ngày đêm. Ngày nay, rạch Bà Đài đang hẹp dần, 2 bên bờ cũng hiếm nghe được tiếng cưa đục của các xưởng gỗ.
Đi dọc bờ rạch, cách một đoạn lại thấy đôi ba chiếc ghe bầu dài hơn chục mét, cao chừng 3 mét nằm bờ, mục nát.
Ngay đầu con rạch, bên cạnh một xưởng thuyền cũ là 5 chiếc ghe loại có sức chứa hàng chục tấn trong cảnh “chết mòn” nơi mép nước bao năm. Những chiếc ghe này đều được đóng mới, chưa một lần hạ thủy nhưng không bán được nên nằm bờ phơi sương gió.
Hết kiếp người cũng hết làng nghề?
Ông Măng kể, khoảng những năm 2010, khách khắp miền Tây tấp nập đến Bà Đài mua ghe xuồng, các xưởng làm không kịp bán. Nhu cầu lớn, xưởng nào cũng phải đóng sẵn ghe chờ khách. Nhưng rồi thị trường đột ngột “chết đứng”, cả năm không một khách nào đến hỏi mua ghe lớn.
Miền Tây dần phát triển, đường sá, xe tải dần thay thế ghe bầu, xuồng nhựa áp chế xuồng ba lá. Những năm đầu ế ẩm, chủ các trại ghe vẫn còn vốn liếng, vẫn nuôi hy vọng một ngày có khách trở lại, vì vậy những chiếc ghe nằm bờ vẫn được che chắn, giữ gìn. Nhưng 3 năm, 5 năm, rồi 10 năm vẫn không ai đến hỏi, những chiếc ghe dần bị bỏ mặc gió mưa tàn phá.
“Ngày trước, ở trong làng, ghe nào không bán được chủ đều kéo ra đây để. Mấy năm nay nhiều chiếc đã bị dỡ ra lấy ván rồi.
Nhà tôi trước đây cũng có 2 chiếc ghe nằm phơi nắng hơn chục năm ở ngay đầu con rạch. Chi phí đóng tốn 500 triệu đồng mà phải dỡ 3 năm trước. Bao nhiêu vốn liếng tích góp cả đời cũng hết, xưởng ghe ông nội để lại cũng không giữ được, từ làm chủ tôi phải đi làm mướn”, ông Măng ngậm ngùi.
Qua thăng trầm vẫn không bỏ được nghề, sau khi trả hết nợ và tích góp được một chút vốn, mới đây ông Măng lại mở một xưởng ghe nhỏ bên bờ con rạch. Lần này xưởng ghe không còn lớn như ngày xưa để phải thuê người làm, diện tích chỉ đủ để mình ông Măng xoay trở.
“Khó khăn lắm. Xưa hàng làm ra người ta mua ngay tại xưởng. Nay một tháng tôi đóng được 15 chiếc xuồng thì phải mất nửa tháng tự chở đi rao khắp miệt Bến Tre, Trà Vinh mới mong bán hết. Cũng không dám đóng thuyền lớn, chỉ đóng xuồng câu mới có người mua”, ông Măng cho biết.
Tiếc nghề, nhưng ông Măng cũng không dám cho con cái theo nghề, vì khó sống. Ông kể, bạn thợ lúc ngồi với nhau hay than rằng “đành chịu, hết kiếp mình có lẽ cũng hết làng nghề”.
Cách xưởng của ông Măng chừng 400m mới có thêm một xưởng đóng ghe khác. Tương tự cảnh nhà ông Măng, xưởng này cũng nhỏ, ít gỗ, ít hàng và chỉ có một người làm. Ông Nguyễn Văn Tám (53 tuổi, chủ xưởng) được dân trong ấp đặt biệt danh là Tám “xuồng” vì giỏi nghề hiếm ai qua được.
Ông Tám cho biết, trước đây ông và anh trai đều là thợ đóng xuồng. Tuy nhiên vì làm nghề truyền thống không nuôi nổi vợ con, anh trai ông Tám đã bỏ quê lên Bình Dương làm mướn.
Tiếc nghề cha truyền con nối, ông Tám không đành bỏ. Xuồng thật không bán được, ông Tám quay sang làm xuồng mô hình, bán hàng lưu niệm.
“Làm xuồng mô hình khó hơn làm xuồng thật nên ít người làm được. Dù vậy nhưng ngày công cũng chỉ được 300.000 đồng thôi, thành ra lại càng ít người chịu làm”, ông Tám nói.
Níu giữ hình hài vùng đất
Theo hương tích, làng nghề đóng xuồng ven rạch Bà Đài đã trên trăm năm tuổi, tổ nghề là cụ Phạm Văn Thuông (tục gọi là ông Sáu xuồng cui, sinh năm 1875, mất năm 1945).
“Khoảng từ những năm 1970-2000, quanh rạch có 10 nhà thì đến 9 nhà làm nghề đóng thuyền, tiếng cưa tiếng đục nhộn nhịp ngày đêm. Nhưng giờ đây, 10 trại thuyền thì 9 cái bỏ hoang rồi, thợ phải chuyển nghề, làm việc khác”, ông Nguyễn Văn Tốt (Bảy Tốt, 64 tuổi) người gọi tổ nghề đóng xuồng bằng cố, cho biết.
Ông Bảy cũng được coi là thợ đóng thuyền giỏi bậc nhất trong ấp, người đóng con thuyền choán nước 150 tấn, sản phẩm lớn nhất từng xuất xưởng ở rạch Bà Đài. Dù vậy, lão nghệ nhân cũng từng có thời phải bỏ nghề cha ông để làm việc khác kiếm tiền nuôi gia đình.
Thế nhưng tình yêu nghề và nỗi tiếc nuối di sản của vùng đất đã kéo ông Bảy trở lại với cưa đục, với những tấm gỗ sao nặc mùi bùn. Năm 2012, ông Bảy lần nữa khởi nghiệp đóng xuồng, nhưng lần này ông không còn đóng xuồng đi sông, ông đóng xuồng mô hình để trưng hoa quả.
Lại như ông Sáu hơn trăm năm trước, lần này ông Bảy khai sinh một nghề mới cho làng – nghề đóng xuồng mini.
“Nghề của cha ông, mình bỏ không đành. Không bán được xuồng thật, tôi nghĩ ra việc làm xuồng mô hình, có lẽ cũng là cách để bảo tồn nghề, bảo tồn hình ảnh của những chiếc xuồng để thế hệ sau có thể mường tượng được hình hài miền Tây sông nước những năm tháng đã xa.
Làm xuồng mô hình khó hơn nhiều, tốn công 5-10 lần làm xuồng thật, đòi hỏi khắt khe từ tay nghề thợ đến chất lượng gỗ nguyên liệu, nên không phải ai cũng làm được. Đến nay, tôi đã làm được gần như đầy đủ mô hình các loại ghe xuồng từng bơi trên sông nước Cửu Long, tính ra cũng không có lỗi với cha ông, không để nghề truyền thống biến mất”, ông Bảy nói.
Trong xưởng nhỏ của ông Bảy ở cuối con rạch trưng bày đủ mô hình các loại ghe xuồng miền Tây. Du khách ghé qua có cơ hội được thấy ghe Bà Đài, ghe tam bản, ghe bầu, xuồng ba lá, xuồng Cần Thơ, ghe ngo Sóc Trăng… với kích thước bằng 1/10 so với hàng thật.
Theo ông Bảy, những chiếc xuồng ghe là linh khí gắn liền với ký ức miền Tây sông nước, gắn liền với bước chân mở cõi của cha ông. Ngày nay, nước chỉ còn tràn bờ trong những câu chuyện kể, nhưng ông Bảy không muốn những chiếc thuyền cũng dần thành cổ tích.
Ghe xuồng thật có giá từ vài triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng, còn ghe xuồng mini của ông Bảy chỉ có giá từ mấy trăm nghìn đồng đến vài triệu đồng tùy mẫu mã.
Ông Bảy cho biết, ghe xuồng mô hình bán rất chạy. Ông Bảy mong dạy được nghề mới cho các thế hệ kế thừa trong làng. Dù vậy, ông đếm đi đếm lại thì quân số người chịu học cũng không hết 10 đầu ngón tay.
Làng nghề đóng thuyền ven rạch Bà Đài là một trong những làng nghề tiêu biểu của Đồng Tháp. Trước đây, mỗi năm làng có hàng chục nghìn chiếc thuyền xuất xưởng với đủ kích cỡ, kiểu loại, bán khắp các tỉnh miền Tây. Kỹ thuật đóng xuồng của thợ ven rạch Bà Đài có nhiều điểm độc đáo, khiến sản phẩm có đặc trưng riêng, được thị trường đánh giá cao về cả chất lượng và thẩm mỹ.
Lãnh đạo Sở VHTTDL tỉnh Đồng Tháp cho biết, nghề đóng xuồng ven rạch Bà Đài đã được Bộ VHTT&DL công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2015. Trước sự biến đổi của thị trường, nhiều cơ sở còn giữ nghề nơi đây đã chuyển sang làm mô hình ghe xuồng phục vụ du lịch, bán hàng lưu niệm.
Ngành chức năng tỉnh Đồng Tháp đang có nhiều hoạt động để quảng bá hình ảnh làng nghề đóng xuồng rạch Bà Đài và thu hút khách du lịch đến khám phá di sản đặc hữu này.
Ảnh: Trịnh Nguyễn
Dantri.com.vn
Nguồn: https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/nguoi-niu-giu-ky-uc-mien-tay-tai-lang-dong-thuyen-di-san-van-hoa-20241014151137880.htm