Từ xa xưa, khi mỗi mùa Xuân về cũng là “mùa tranh Tết” đến, khắp phố phường, làng mạc bừng lên sắc thắm của hoa đào, chính là lúc người người, nhà nhà đi chợ sắm tranh Tết để trang hoàng nhà cửa, đồng thời gửi gắm ước vọng vào một năm mới thịnh vượng, an lành. Bởi tranh Tết vừa là thú chơi tao nhã, vừa góp phần không nhỏ bảo tồn văn hóa dân tộc.
Dân gian có câu “Nhất chữ, nhì tranh, tam sành, tứ mộc”, ý nói đến các thú chơi hàng đầu của người Việt trong dịp Tết Nguyên đán có từ bao đời nay. Thú chơi tranh trong những ngày Tết đến Xuân về, với sắc màu rực rỡ, đường nét độc đáo, không chỉ mang lời chúc năm mới an khang, thịnh vượng, mà còn là một phong tục cổ truyền đẹp, một phần hồn Việt trong lành và nhân hậu.
Tranh Tết dân gian có nhiều thể loại: tranh tín ngưỡng, tranh chúc tụng, tranh cầu phúc – lộc – thọ, tranh trấn trạch, tranh lịch sử, tranh châm biếm, tranh phong cảnh… Đã là tranh treo Tết nên bao giờ cũng mang một nội dung cầu chúc cho những gì tốt đẹp nhất và ước vọng một năm mới tràn đầy hạnh phúc viên mãn. Mỗi bức tranh dân gian đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người.
Theo các nguồn sử liệu, vào thời Lý (1010 – 1225), do nhu cầu sắm sửa và sưu tầm tranh dân gian cho các dịp lễ, Tết, thờ cúng đã hình thành nên một số gia đình chuyên làm nghề khắc ván in và thậm chí cả một làng chuyên làm nghề khắc ván và in tranh.
Đến thời Trần (1225 – 1400), hội họa phát triển rực rỡ, nhiều hình chạm nổi, khắc chìm có niên đại Trần hoặc mang phong cách nghệ thuật Trần. Những hình chạm nổi, khắc chìm trên các chất liệu gốm, gỗ và đá vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trong đó có một số hình được in trên giấy với các đường nét tưởng như được vẽ bằng bút. Đó là một trong những hình thức của sự phát triển in ấn tranh trong lịch sử Việt Nam.
Ở thời Lê sơ (1428 – 1527), vào thế kỷ XV, người Việt tiếp thu có cải tiến kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc. Cũng từ đây trong dòng chảy của tranh dân gian Việt Nam bắt đầu có một sự phân hóa để ngày càng phát triển.
Trong quá trình phát triển nghề in khắc gỗ, việc sản xuất tranh dân gian ngày một mở rộng ở nhiều địa phương. Trong đó có một số địa phương trở thành trung tâm sản xuất tranh khắc gỗ dân gian nổi tiếng như: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Thăng Long – Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây, nay Hà Nội), Nam Hoành (Nghệ An), Sình (Huế)…
Dưới thời Mạc (thế kỷ XVI) tranh dân gian phát triển cực mạnh, được các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng nhiều vào dịp Tết, mà bài thơ dưới đây là một minh chứng:
Sang thế kỷ XVIII – XIX, tranh dân gian Việt Nam vẫn ổn định và phát triển cao. Tranh dân gian có nhiều dòng, trong đó đáng chú vẫn là tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng và tranh làng Sình… chủ yếu phục vụ nhu cầu mua sắm để trang trí ngày Tết của Nhân dân.
Tranh trang hoàng ngày Tết mang ý nghĩa đặc biệt vừa là để “Tống cựu, nghênh tân”, vừa ước mong một năm mới đầy đủ, sung túc.
Tranh Tết cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc của người Việt. Chính vì thế, nó là một phần không thể thiếu trong không gian ngày Tết cổ truyền.
Cùng với những thăng trầm lịch sử, có dòng tranh phát triển mạnh, nhưng cũng có dòng tranh theo thời gian mai một, giờ chỉ còn trong ký ức. Tranh dân gian không còn ở thời cực thịnh, nhưng thú chơi tranh, người yêu nét đẹp dung dị, mộc mạc của những bức tranh dân gian thì vẫn còn.
Đặc biệt khi đời sống vật chất ngày càng sung túc, quan niệm “ăn Tết”, đã chuyển dần sang “chơi Tết”, thì cách chơi tranh ngày Tết cũng phong phú, đa dạng hơn.
Bài: Trần Mạnh Thường
Ảnh: Tư liệu
Thiết kế: Khánh Linh