ANTD.VN – Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho rằng ngân hàng không nên cho vay đặt cọc nhà ở, và cần thiết kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích trong trường hợp cho vay góp vốn.
Cần thiết siết cho vay đặt cọc nhà ở
Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Sáu, Quốc hội khóa XV có một số điểm mới như quy định thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua từ khách hàng khi nhà ở, công trình xây dựng đã có đủ các điều kiện đưa vào kinh doanh; đồng thời, giảm tỷ lệ thanh toán khi thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai xuống còn 50% thay vì 70% như hiện nay.
Đánh giá về những quy định mới này, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) Nguyễn Quốc Hùng bày tỏ sự đồng tình.
Ông Hùng cho rằng, đối với quy định thu tiền đặt cọc không quá 5% giá bán, cho thuê mua từ khách hàng là phù hợp với các quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi). Quy định này nhằm bảo đảm tính chất của việc đặt cọc (không vì mục đích huy động vốn) có giá trị đủ lớn để cả bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc cùng có ý thức tuân thủ và đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng đối với những người mua nhà.
Ông Nguyễn Quốc Hùng |
Liên quan đến vấn đề cho vay đặt cọc nhà ở, ông Hùng cho rằng không nên cho phép các tổ chức tín dụng cho vay chỉ để đặt cọc nhà ở. Bởi vì, theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng và thông tư hướng dẫn thì mọi khoản vay (kể cả vay thế chấp bằng sổ tiết kiệm), khách hàng cũng phải có phương án vay vốn, xuất trình hợp đồng mua hàng hóa, kế hoạch trả nợ, nguồn trả nợ…
Vậy, khách hàng đề nghị ngân hàng vay vốn chỉ để đặt cọc, để cam kết mua hàng xây dựng phương án như thế nào? Hiệu quả ra sao?. Và ngân hàng căn cứ vào quy định nào cho vay đặt cọc nếu không có phương án tổng thể về việc mua nhà trong đó có nội dung đặt cọc?. Do vậy, theo ông Hùng, nếu chỉ cho vay đặt cọc riêng lẻ thì ngân hàng không có căn cứ để cho vay.
Ngay cả trường hợp khách hàng xây dựng phương án mua hàng hóa, trong đó có nội dung đặt cọc để vay vốn thì cũng phải cam kết có tối thiểu 20-30% vốn tự có. “Vậy, nếu muốn đặt cọc nhằm đảm bảo giao kết thì việc gì phải vay vốn ngân hàng?. Vì bản thân người vay đã phải có tối thiểu 20% -30% vốn tự có.Tôi không thể hình dung nổi tại sao lại phải vay ngân hàng tiền đặt cọc để đảm bảo giao kết, mà đó không phải là hợp đồng mua bán?” – ông Hùng đặt câu hỏi.
Ngay cả trường hợp ngân hàng, căn cứ vào hợp đồng mua bán, trong đó có thỏa thuận đặt cọc để cho vay cả tiền đặt cọc (nếu có), theo ông, ngân hàng cũng sẽ đối diện với rủi ro có thể xảy ra nếu khoản tiền cho vay để đặt cọc để cho người bán sử dụng. Vì vậy, khi cho vay sẽ thỏa thuận với khách hàng khoản tiền đó cần phải lưu ký tại ngân hàng cho đến khi thực hiện nghĩa vụ.
“Kinh nghiệm công tác nhiều năm trong ngành Ngân hàng tôi thấy không nên cho vay chỉ để mục đích đặt cọc. Trường hợp đặc biệt, xét cả phương án tổng thể thì có thể thỏa thuận với khách hàng cho vay đặt cọc trong thời gian bảo đảm giao kết, song số tiền đó phải để tại tài khoản tiền gửi của khách hàng hoặc người bán nhưng không được sử dụng, chỉ được sử dụng khi thực hiện giao kết hợp đồng mua bán. Số tiền đặt cọc đó được tính vào số tiền vay để mua nhà theo đúng phương án tổng thể khi đề xuất vay vốn” – ông Hùng nói.
Không thể bỏ quy định ngân hàng phải kiểm soát sử dụng vốn vay
Mới đây, Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) đã đề nghị NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 39/2016 theo hướng bỏ quy định về việc “kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích” của TCTD.
Lý do mà HoREA đưa ra, là khách hàng “vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án” thì số tiền vay này đã được tổ chức tín dụng chuyển vào tài khoản của chủ đầu tư dự án, có nghĩa là khách hàng vay tín dụng đã sử dụng vốn vay đúng mục đích “vay để thanh toán tiền góp vốn”.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, theo quy định, tại khoản 3 Điều 94 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1, 2 Điều 24 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, thì TCTD có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 88/2019/NĐ-CP còn quy định chế tài hành chính, có mức phạt đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức tín dụng nếu vi phạm.
Với các quy định chế tài bằng biện pháp xử phạt hành chính nêu trên, pháp luật ngân hàng đã khẳng định rằng, công tác kiểm tra, giám sát còn là nghĩa vụ bắt buộc bên cho vay phải thực hiện, xuất phát từ chính những lợi ích chung của hoạt động ngân hàng.
“Lý thuyết và thực tế cho thấy, phát sinh từ những rủi ro của bên vay (khách hàng) cũng có thể bị chuyển hóa thành những rủi ro của hệ thống ngân hàng. Do vậy, bên vay phải ý thức nghĩa vụ của mình, tuân thủ nghiêm túc sự kiểm tra, giám sát, không thể viện dẫn bất cứ lý do gì để trì hoãn, tránh né thực hiện nghĩa vụ này.
Trách nhiệm của TCTD là phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Các quy trình, quy định trong việc cho vay của TCTD đã hết sức rõ ràng, cụ thể và cần được tuân thủ một cách nghiêm túc” – ông nói.
Liên hệ với việc huy động trái phiếu, ông Hùng cho rằng doanh nghiệp, tổ chức muốn phát hành trái phiếu để huy động vốn phải xây dựng phương án phát hành nhằm mục đích gì? Đầu tư vào đâu? Hiệu quả như thế nào? Có lãi bao nhiêu? Trên cơ sở đó mới đưa ra mức lãi suất huy động? Nhà đầu tư có quyền phải biết tiền đó đầu tư có đúng như mục đích phát hành không? Từ đó mới biết lãi suất được hưởng là đúng với khả năng sinh lời của dự án.
Do đó, việc đề nghị bỏ quy định về việc “kiểm soát sử dụng vốn vay đúng mục đích”, theo ông Hùng, là trái quy định pháp luật và trái với thông lệ quốc tế.