Thúc đẩy tiêu dùng trong nước; đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng gắn với thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và tiếp tục cải cách chính sách là các yếu tố chính giúp Việt Nam có được tăng trưởng bền vững, đồng thời tiếp tục duy trì được khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI, theo chia sẻ của ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam.
Doanh nghiệp mong ngóng được giảm phí Đã đến lúc phải khai thác được thị trường nội địa |
Ông nhìn nhận thế nào về kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng kinh tế năm 2024?
Nhìn chung, nền kinh tế đã cho thấy khả năng phục hồi tích cực trong năm 2023. Mức tăng trưởng năm 2023 dù không đạt mục tiêu đặt ra nhưng là khá tốt so với các nước trong khu vực và thế giới. Bất chấp những cơn gió ngược, Chính phủ đã cân bằng tốt giữa chính sách tiền tệ và tài khóa để đảm bảo khả năng phục hồi cao trước một số thách thức toàn cầu mà nền kinh tế phải đối mặt; giữ được lạm phát và lãi suất ở mức thấp. Đồng thời Chính phủ đã và đang thực hiện các bước đi đúng đắn để giải quyết một số vấn đề trên các thị trường.
Ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam |
Năm 2024, tôi nghĩ triển vọng lạc quan hơn, nhưng vẫn cần thận trọng, bởi còn đó một số trở ngại bên ngoài liên quan đến các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Những cơn gió ngược, dù dự báo sẽ giảm bớt trong năm nay, nhưng không có nghĩa đã được loại trừ. Đơn cử, nếu lạm phát toàn cầu vẫn duy trì ở mức cao và việc thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế lớn kéo dài hơn dự báo sẽ khiến sức cầu bên ngoài chưa hồi phục mạnh, có thể tác động không thuận đến Việt Nam, nhất là lĩnh vực xuất khẩu. Tại báo cáo cập nhật Triển vọng Phát triển châu Á (ADO) tháng 12/2023 của ADB, chúng tôi dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2024 ở mức 6,0%.
Tôi cho rằng, triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm 2024 và xa hơn sẽ phụ thuộc mức độ cải thiện đầu tư công, cải thiện cơ sở hạ tầng và khả năng phục hồi, thích ứng của đất nước trước các khía cạnh và thách thức khác nhau như biến đổi khí hậu.
Trong bối cảnh xuất khẩu còn khó khăn, ông đánh giá thế nào về động lực tiêu dùng trong nước?
Tiêu dùng trong nước là động lực tăng trưởng rất quan trọng. Nếu nhìn vào các quốc gia khác ở châu Á, một số nước có thị trường nội địa lớn và thúc đẩy được tiêu dùng như Ấn Độ, Indonesia… đã giúp họ giữ được đà tăng trưởng khá tích cực trong bối cảnh xuất khẩu chung giảm sút. Việc có nhiều tiền hơn đến tay người dân cũng là cách để tiêu dùng hàng hóa tăng lên. Nhìn từ góc độ đó, việc NHNN giữ được mặt bằng lãi suất ở mức thấp như thời gian vừa qua dự kiến sẽ thúc đẩy tín dụng, mặc dù chúng ta chưa thấy ngay được sự cải thiện đáng kể về tăng trưởng tín dụng trong năm 2023. Tuy nhiên, thường khi mặt bằng lãi suất thấp sẽ dẫn đến tín dụng tăng nhiều hơn và tôi tin điều này sẽ thể hiện rõ hơn trong năm nay.
Bên cạnh đó như tôi đã nói, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế còn khó khăn, việc cải thiện đầu tư công cũng sẽ có tác động tích cực lên các lĩnh vực khác của nền kinh tế, hỗ trợ lĩnh vực như xây dựng và các dịch vụ khác, từ đó cũng sẽ thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Và tôi cho rằng, tiêu dùng trong nước sẽ là một trong những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong tương lai.
Việt Nam vẫn là điểm đến tích cực của dòng vốn FDI. Tuy nhiên theo ông, đâu là những yếu tố cần tiếp tục cải thiện?
Nhu cầu thu hút vốn FDI vẫn rất lớn và Việt Nam trong vài năm qua nổi lên như một điểm đến mạnh mẽ của FDI. Việt Nam vẫn là điểm đến ưa thích của dòng vốn FDI nhưng không phải là thời điểm để chúng ta có thể tự mãn. Có những nước khác đang trở thành điểm đến hấp dẫn cho đầu tư FDI. Chúng ta cũng đang thấy có sự cạnh tranh rất lớn, các nước khác trong khu vực cũng đang rất chủ động trong việc cạnh tranh thu hút vốn FDI. Do đó, để duy trì lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong việc tiếp tục thu hút FDI, còn rất nhiều việc phải làm. Ở đây tôi nhấn mạnh về yếu tố đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng gắn với giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và yếu tố chính yếu thứ hai là cải cách chính sách.
Triển vọng kinh tế của Việt Nam sẽ phụ thuộc mức độ cải thiện đầu tư công |
Về cơ sở hạ tầng, đây là xương sống của nền kinh tế, nên chúng ta phải tiếp tục duy trì đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, như xây dựng đường sá, các khu công nghiệp, các nhà máy điện, cải thiện hệ thống truyền tải điện… đây đều là những yếu tố mà các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét rất kỹ khi quyết định đổ tiền vào đầu tư. Và nó cũng quan trọng từ góc độ giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, bởi Việt Nam đã cam kết thực hiện các mục tiêu Net Zero rất tham vọng và điều này yêu cầu trong thời gian tới phải tăng đáng kể việc sản xuất và chuyển dịch sang năng lượng tái tạo – một yếu tố nữa cho thấy cần đầu tư rất lớn. Những khoản đầu tư đó cần được thực hiện để đảm bảo ổn định mạng lưới truyền tải điện cũng như đảm bảo có đủ điện để cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ, cả ở góc độ nhu cầu tiêu dùng điện trong công nghiệp và các ngành sản xuất cũng như nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cho sinh hoạt.
Về cải cách chính sách, tôi thấy có rất nhiều lĩnh vực đã đạt được tiến bộ, nhưng cần phải hành động nhiều hơn nữa để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và tạo ra các chính sách mạnh mẽ; giảm thiểu rủi ro cho các ngành, giảm bớt sự không chắc chắn trong chính sách, đảm bảo sự chắc chắn và nhất quán trong quy định. Và đây là những yếu tố then chốt mà các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm khi họ tìm kiếm các cơ hội đầu tư, mở rộng đầu tư tại Việt Nam.
Vậy đâu là lĩnh vực trọng tâm ADB sẽ hỗ trợ Việt Nam để giúp giải quyết những thách thức trên?
Vâng, ADB đã trở thành “ngân hàng khí hậu” của châu Á. Ý tôi là, có một sự thay đổi đáng kể trong hoạt động của ADB trên toàn khu vực, hướng tới giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Tất cả các hoạt động của chúng tôi sẽ đều có yếu tố về khí hậu, tài chính khí hậu, cả về mặt thích ứng và giảm thiểu. Ở Việt Nam cũng vậy, Việt Nam là đối tác rất mạnh của ADB trong 30 năm qua. Và trong tương lai, trọng tâm của chúng tôi sẽ là đảm bảo hỗ trợ cho các dự án có khả năng phục hồi khí hậu, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển bền vững của chúng tôi, mục tiêu hướng đến là giúp Việt Nam đảm bảo thích ứng và giảm thiểu rủi ro khí hậu; tăng trưởng bền vững và toàn diện. Vì vậy, chiến lược đối tác quốc gia hiện tại của ADB trong 5 năm tới về cơ bản có những trụ cột then chốt gồm: Tăng trưởng xanh; Tăng trưởng bao trùm; và Tăng trưởng do khu vực tư nhân dẫn dắt. Đây là ba lĩnh vực chiến lược cốt lõi mà ADB hướng tới hỗ trợ Chính phủ Việt Nam.
Xin cảm ơn ông!