Là một tỉnh trung du miền núi, cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, cách thủ đô Hà Nội 80 km về Phía Bắc. Phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Hà Nội; Tây giáp tỉnh Sơn La; Nam giáp tỉnh Hoà Bình; Bắc giáp tỉnh Yên Bái và tỉnh Tuyên Quang.
Sau 20 năm tái lập tỉnh và tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành Trung ương, tỉnh Phú Thọ đã phát huy truyền thống đoàn kết, khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế, năng động, sáng tạo, vượt khó với quyết tâm cao để thực hiện hoàn thành các mục tiêu chủ yếu đề ra và tiếp tục giành được thành tựu toàn diện trên các lĩnh vực. Giai đoạn 2010 – 2015, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 5,87%; trong đó: Công nghiệp – xây dựng tăng 7,25%, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 5,09%, dịch vụ tăng 4,93%. Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 40.400 tỉ đồng, tăng 84%, đứng đầu trong các tỉnh vùng Tây Bắc; GRDP bình quân đầu người đạt trên 33 triệu đồng (năm 2016). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ, phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ, có nhiều mô hình, cách làm sáng tạo. Đến hết năm 2016, có 1 huyện đạt chuẩn nông thôn mới, 39 xã đạt và 52 xã cơ bản đạt chuẩn; diện mạo nông thôn khởi sắc.
Đặc biệt, Phú Thọ đã thực hiện hiệu quả 3 khâu đột phá về đầu tư kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển du lịch. Giai đoạn 2010-2015, tỉnh đã huy động tổng số vốn trên 69 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 10,2%/năm để đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp gần 1.000 km đường, hoàn thành 7 cầu lớn. Hạ tầng đô thị, khu cụm công nghiệp, nông nghiệp, nông thôn được tăng cường đầu tư, tạo diện mạo mới, góp phần đưa thành phố Việt Trì sớm trở thành đô thị loại I… Công tác đào tạo nguồn nhân lực đạt kết quả quan trọng, tỷ lệ kiên cố hóa trường học đạt 85,6% (bình quân vùng Tây Bắc là 73%). Kinh phí đầu tư từ ngân sách cho các cơ sở đào tạo, dạy nghề tăng 64,3%; quy mô đào tạo tăng 35,5% so nhiệm kỳ trước. Hoạt động du lịch có bước phát triển khá, kết cấu hạ tầng du lịch được tăng cường đầu tư. Tổng nguồn vốn huy động phát triển du lịch tăng 3,5 lần; lượng khách đến tham quan, du lịch và thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương hàng năm đạt 6 – 7 triệu lượt; doanh thu du lịch tăng 17,9%/năm.
Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉnh đã xây dựng và bảo vệ thành công hai di sản văn hóa phi vật thể “Hát Xoan Phú Thọ” và “Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” được UNESCO công nhận và vinh danh, góp phần khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa và tạo sự lan tỏa của không gian văn hóa vùng đất Tổ. Công tác xóa đói giảm nghèo tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể (theo tiêu chí mới còn dưới 10%), đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phát triển, quy mô trường lớp ngày càng mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên. Phú Thọ là tỉnh thứ 6 trong cả nước được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ năm 1992; đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2002; tỉnh thứ 17 đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS vào năm 2003 và là một trong 6 tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành trước 3 năm phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2012. Các hoạt động văn hóa, thể thao, thông tin không ngừng phát triển thực sự là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế được mở rộng, phát triển có chiều sâu. Hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết các dân tộc tiếp tục được xây dựng, củng cố vững mạnh. Tư duy, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cách tiếp cận giải quyết vấn đề của cấp ủy, chính quyền các cấp có sự đổi mới mạnh mẽ; tác phong, lề lối làm việc của đảng viên, cán bộ có chuyển biến tích cực.
Nằm ở trung tâm của nền văn minh Sông Hồng, Phú Thọ là đất cội nguồn, đất của thế dựng nước và giữ nước, đất của các di tích lịch sử; đất của các danh thắng, của các sản vật thiên nhiên độc đáo. Hơn một thế kỷ qua, đặc biệt từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Phú Thọ luôn nêu cao tỉnh thần đoàn kết, kiên cường anh dũng chống giặc ngoại xâm góp phần bảo vệ và đồng tâm, nhất trí thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra, phấn đấu xây dựng Phú Thọ trở thành một trong những tỉnh phát triển hàng đầu của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.
Hiện tỉnh Phú Thọ có 353.294,93 ha diện tích tự nhiên và 1.313.926 nhân khẩu; 13 huyện, thành, thị (thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, 11 huyện: Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Hạ Hòa, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh); 277 đơn vị hành chính cấp xã.
Khai thác tiềm năng thế mạnh, bằng sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, sự hỗ trợ có hiệu quả của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, trong những năm qua tình hình kinh tế – xã hội đã có chuyển biến tích cực với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 9%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục và công tác xã hội đã có những tiến bộ đáng kể; điều kiện và mức sống của nhân dân trong tỉnh được nâng cao rõ rệt, bước đầu tạo diện mạo mới về kinh tế – xã hội, đưa Phú Thọ cùng cả nước trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế.
Với phương trâm khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh, trong thời gian qua tỉnh Phú Thọ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn, mở rộng cửa mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cùng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ, có khả năng thu hồi vốn nhanh và đạt hiệu quả cao, tập trung vào 4 nhóm ngành có lợi thế so sánh là: Công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; khai khoáng, hoá chất, phân bón; sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp sản xuất hàng may mặc, hàng tiêu dùng. Ngoài ra Phú Thọ cũng đã giành 1000ha đất để ưu tiêu cho phát triển các khu công nghiệp tập trung ở phía Bắc, phía Nam và phía Tây thành phố Việt Trì; định hình một số cụm công nghiệp ở các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Lâm Thao, Phù Ninh, Thanh Ba, Hạ Hoà, Đoan Hùng, gắn liền với việc thực hiện công nghiệp hoá công nghiệp nông thôn.
Để đấy nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, nhân dân và chính quyền tỉnh Phú Thọ đã và đang tạo điều kiện tốt nhất nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài vào đầu tư, nhanh chóng đưa Phú Thọ trở thành một trung tâm kinh tế của vùng Tây Bắc, góp phần xây dựng tỉnh Phú Thọ – Đất Tổ Hùng Vương giàu đẹp phồn vinh và thịnh vượng.
Phú Thọ có địa thế khá thuận lợi về giao thông, với ba con sông lớn là sông Hồng, sông Lô, sông Đà chảy qua, hệ thống giao thông đường sắt Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh; đường quốc lộ 2, đường cao tốc xuyên Á là cầu nối quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước ASEAN. Ngoài ra, Phú Thọ còn có các yếu tố khác để phát triển kinh tế – xã hội như con người, tài nguyên, các khu công nghiệp, khu du lịch văn hoá lịch sử Đền Hùng, khu du lịch sinh thái Xuân Sơn…
Bước vào giai đoạn giai đoạn 2020 – 2025 với nhiều khó khăn, thách thức song cũng đứng trước cơ hội và thời cơ mới, Phú Thọ đặt mục tiêu tập trung thực hiện khâu đột phá về “Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư và kinh doanh”; phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng bình quân 7,5%/năm trở lên; cơ cấu kinh tế năm 2025 chuyển dịch công nghiệp – xây dựng 40,5%, dịch vụ 41,5%, nông – lâm nghiệp – thủy sản 18%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm đạt trên 160 nghìn tỷ đồng; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2025 đạt trên 10 nghìn tỷ đồng; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2025 đạt 22% trở lên.
Để đạt mục tiêu này, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Phú Thọ đẩy nhanh tiến độ triển khai lập Quy hoạch tổng thể phát triển tỉnh đến năm 2030, đảm bảo các yêu cầu tầm nhìn, định hướng chiến lược, tính khả thi trong 10 năm tới. Xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; đầu tư công 5 năm 2021 – 2025 theo hướng xác định rõ các trọng tâm, trọng điểm để tổ chức thực hiện phù hợp với khả năng và nguồn lực của tỉnh.
Tập trung đầu tư các hạ tầng kinh tế kỹ thuật lớn, hạ tầng đảm bảo đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư mở rộng, đầu tư mới; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao điểm số các chỉ số đánh giá môi trường đầu tư kinh doanh; triển khai Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới chính sách đào tạo nghề; nâng cao kiến thức hội nhập cho đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp.
Trong sản xuất công nghiệp tập trung thu hút, nghiên cứu, lựa chọn kỹ lưỡng các dự án quy mô lớn, có tính khả thi cao; phấn đấu đến 2021 cơ bản lấp đầy trên 2/3 Khu công nghiệp Cẩm Khê, Phú Hà và khởi công các Khu công nghiệp Tam Nông, Hạ Hòa; tiếp tục mở rộng Khu công nghiệp Trung Hà; khởi công một số cụm công nghiệp mới.
Về sản xuất nông nghiệp, tiếp tục cơ cấu lại các sản phẩm chủ lực, phù hợp với lợi thế của từng địa bàn, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Tăng cường chỉ đạo triển khai Nghị quyết 05 của HĐND tỉnh, trọng tâm là cây chè, cây bưởi, chuyển hóa rừng cây gỗ lớn thành vùng tập trung, sản xuất hàng hóa. Tiếp tục cơ cấu lại đàn vật nuôi và tái đàn lợn theo hướng phát triển, cung cấp con giống chất lượng cho người nông dân; ưu tiên phát triển trang trại, gia trại, chăn nuôi khép kín, an toàn sinh học.
Về phát triển dịch vụ: Tập trung xây dựng và triển khai đề án phát triển thành phố Việt Trì trở thành thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam; điều chỉnh quy hoạch Khu Di tích lịch sử Đền Hùng phù hợp với định hướng phát triển Khu du lịch Quốc gia; đồng thời thu hút các dự án đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ ngoài vùng tam sơn cấm địa của Đền Hùng. Quyết tâm khởi công trong năm 2021 đối với 5 dự án lớn thuộc lĩnh vực dịch vụ tại thành phố Việt Trì, các huyện: Tam Nông, Hạ Hòa, Tân Sơn. Chú trọng đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối giao thương, đưa các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc trưng, sản phẩm OCOP của tỉnh vào các hệ thống phân phối; hỗ trợ xây dựng các trang điện tử bán hàng trực tuyến gắn với thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, tạo sự kết nối trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng.