Nỗ lực của Việt Nam trong phát triển văn hóa
Tham dự Hội thảo về phía quốc tế có ông Jonathan Baker, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam; ông Marco Della Seta, Đại sứ Italia tại Việt Nam; ông Piere du Ville, Trưởng Đại diện Phái đoàn Wallonie-Bruxelles (Bỉ) tại Việt Nam…
Về phía Việt Nam có TS. Nguyễn Phương Hòa, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế; PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam; đại diện Sở VHTT/VHTTDL một số địa phương; các thiết chế văn hóa, hiệp hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, sáng tạo và đông đảo chuyên gia, nghệ sĩ, người thực hành nghệ thuật…
Phát biểu khai mạc hội thảo, Cục Trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) TS. Nguyễn Phương Hòa cho biết: Công ước UNESCO 2005 về Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa là một công cụ pháp lý quốc tế trao cho các quốc gia chủ quyền ban hành các chính sách văn hóa, tăng cường hợp tác quốc tế để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển đa dạng của các biểu đạt văn hóa.
Việt Nam là quốc gia tích cực tham gia vào quá trình đàm phán, ra đời Công ước và cũng là một trong những quốc gia sớm phê chuẩn Công ước vào tháng 7/2007 ngay sau khi Công ước có hiệu lực. Kể từ khi tham gia Công ước đến nay, Việt Nam luôn thể hiện vai trò chủ động, tích cực với hai lần trúng cử thành viên Ủy ban Liên chính phủ Công ước và hiện đang đảm nhận vai trò Phó Chủ tịch Uỷ ban Liên Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2025.
Về nghĩa vụ thành viên, Điều 9 của Công ước 2005 về Chia sẻ thông tin và sự minh bạch đã nêu rõ “các quốc gia thành viên cung cấp các thông tin phù hợp trong báo cáo định kỳ 04 năm/lần cho UNESCO về các biện pháp thực hiện để bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa trong lãnh thổ của mình và ở cấp quốc tế”. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thiện Báo cáo quốc gia định kỳ giai đoạn 2008-2011, 2012-2015 và 2016-2019. Theo tiến độ, Việt Nam sẽ phải nộp Báo cáo quốc gia định kỳ giai đoạn 2020-2023 cho UNESCO trong tháng 6 năm 2024.
“Chính vì thế, Hội thảo hôm nay được tổ chức nhằm tạo một diễn đàn rộng rãi để các bên liên quan cùng góp ý nhằm hoàn thiện Báo cáo quốc gia do Tổ biên soạn gồm đại diện của các bộ, ban, ngành liên quan và một số tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dự thảo” – bà Nguyễn Phương Hòa nói.
Cũng theo bà Nguyễn Phương Hòa, giai đoạn 2020 – 2023 là một thời kỳ vô cùng khó khăn khi toàn thế giới hứng chịu đại dịch Covid, tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội toàn cầu, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa – một lĩnh vực đòi hỏi tụ tập đông người. Tuy nhiên, chính trong bối cảnh ấy, chưa bao giờ chúng ta lại thấy lĩnh vực văn hóa được Đảng và Nhà nước Việt Nam dành sự quan tâm đặc biệt đến vậy. Đáng chú ý nhất phải kể đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc vào tháng 11.2021 do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì.
Bên cạnh đó là các Hội thảo thể chế, chính sách và các nguồn lực cho phát triển văn hóa năm 2022 do Quốc hội chủ trì, Hội nghị toàn quốc kỷ niệm 80 năm Đề cương Văn hóa của Việt Nam, Hội nghị toàn quốc lần đầu tiên về công nghiệp văn hóa năm 2023 do Thủ tướng Chính phủ chủ trì… Tất cả đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội.
Năm 2021, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Chiến lược cũng đặt ra một loạt các mục tiêu cụ thể cho văn hóa Việt Nam đến năm 2030, trong đó phấn đấu giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP, tăng mức đầu tư cho văn hóa tối thiểu 2% tổng chi ngân sách hàng năm…
Ở cấp độ địa phương, nhiều chính sách quan tâm đến phát triển các ngành công nghiệp văn hóa cũng được một số tỉnh, thành phố ban hành, như thành phố Hà Nội với Nghị quyết Số 09 – NQ/TU ngày 22 tháng 2 năm 2022 về phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Thành phố Hồ Chí Minh với Đề án Phát triển ngành công nghiệp văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030; Tỉnh Quảng Ninh cũng ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU Về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững…; Tỉnh ủy Quảng Nam có Nghị quyết 11- NQ/TU về phát triển sự nghiệp văn hóa, TDTT giai đoạn 2021 – 2025…
Ở cấp độ các thiết chế văn hóa, hiệp hội, cá nhân nghệ sĩ, nhiều sáng kiến được chủ động thực hiện, tạo nên một đời sống văn hóa – nghệ thuật sôi động. Đây cũng là giai đoạn ghi nhận sự chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa đối ngoại của Việt Nam, vượt qua những ảnh hưởng của dịch bệnh.
Tại Hội thảo, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam Jonathan Baker đánh giá cao sự quan tâm của Chính phủ, các bộ, ban, ngành, địa phương đối với lĩnh vực văn hóa và đóng góp tích cực của Việt Nam trong vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban Liên Chính phủ của Công ước UNESCO 2005 nhiệm kỳ 2021-2025. Trong giai đoạn này, Chính phủ Việt Nam đã đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra môi trường chính sách và khung pháp lý thuận lợi để thúc đẩy hơn nữa Công ước cũng như các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo của quốc gia.
Qua đó, ông Jonathan Baker khẳng định, trong thời gian tới, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội vẫn là đối tác tin cậy của Việt Nam và sẵn sàng cung cấp hỗ trợ kỹ thuật nếu Việt Nam yêu cầu, không chỉ trong Công ước này mà còn trong các lĩnh vực hợp tác khác.
Đẩy mạnh mục tiêu phát triển văn hóa theo hướng bền vững
Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ cùng với các bộ, ban, ngành thì việc thực hiện Công ước 2005 vẫn còn gặp nhiều thách thức. Theo PGS. TS Đỗ Thị Thanh Thủy – Trưởng Ban nghiên cứu Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, hiện nay Việt Nam còn thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp về thu hút nguồn vốn, phát triển nguồn lực để hỗ trợ, thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển toàn diện trên cả nước nói chung và ở từng địa phương nói riêng. Chính sách đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa còn chưa thực sự khuyến khích và thu hút nhân lực vào lĩnh vực này. Đặc biệt, hệ thống luật pháp liên quan tới mô hình kinh doanh, đầu tư, kiểm duyệt, chính sách thuế và sở hữu trí tuệ cần tiếp tục được hoàn thiện.
Thêm nữa, hiện nay Việt Nam chưa có Chỉ số thống kê về ngành công nghiệp văn hóa trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Thống kê của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan có liên quan mới chỉ đáp ứng yêu cầu báo cáo phục vụ công tác quản lý, chưa được thực hiện toàn diện và đầy đủ dẫn đến việc đề xuất giải pháp phát triển của từng lĩnh vực chưa kịp thời và sát thực tế. Nhiều lĩnh vực trong công nghiệp văn hóa chưa chuẩn hóa được phương pháp thống kê, thiếu hệ thống theo dõi, nên rất khó đánh giá tình hình phát triển.
Qua đó, PGS. TS Đỗ Thị Thanh Thủy cho rằng, trong thời gian 4 năm tới, để đạt được những kết quả nhất định trong việc tiếp tục thực hiện các cam kết theo tinh thần của Công ước 2005, Việt Nam cần ưu tiên nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế, chính sách quan trọng nhằm huy động, giải phóng nguồn lực cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Lồng ghép các vấn đề về phát triển văn hóa và sáng tạo văn hóa trong các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình hợp tác phát triển quốc tế (về phát triển kinh tế, giáo dục – đào tạo, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường,…), thúc đẩy cơ chế phối hợp đồng bộ, hợp tác liên ngành, xuyên ngành trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với các mục tiêu phát triển bền vững.
Cùng với đó, hình thành một mạng lưới các đô thị sáng tạo tại Việt Nam như là những trung tâm sáng tạo lớn của quốc gia về các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo như thiết kế, thủ công, ẩm thực, du lịch văn hóa,… Phát triển và quản lý các sản phẩm, dịch vụ văn hóa sáng tạo trong môi trường số một cách phù hợp, hiệu quả, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững.
Còn theo Chủ tịch Hiệp hội sáng tạo và bản quyền tác giả Việt Nam Bùi Nguyên Hùng, cần tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông sâu rộng trên các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm góp phần bảo vệ những sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, nâng cao nhận thức về các vấn đề có liên quan đến công tác bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, phổ biến tới cộng đồng và công chúng để họ có thể dễ dàng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế./.
Nguồn: https://toquoc.vn/thuc-hien-cong-uoc-2005-cua-unesco-giai-doan-2020-2023-nhieu-chuyen-bien-manh-me-trong-phat-trien-van-hoa-20240604144952641.htm