Tại hội thảo, ông Đào Xuân Lai, Trưởng ban Biến đổi khí hậu và Môi trường UNDP Việt Nam cho biết, chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) đã được công nhận rộng rãi như một công cụ chính sách thành công để quản lý tài nguyên thiên nhiên ở hơn 60 quốc gia. Các chương trình này đã được áp dụng cho các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau trên phạm vi quốc tế, bao gồm bảo tồn đa dạng sinh học, dịch vụ lưu vực sông, hấp thụ các-bon và vẻ đẹp cảnh quan. Tổng số tiền chi trả hàng năm của các chương trình PES trên toàn thế giới trên 36 tỷ USD.
Tại Việt Nam, chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai thành công trong hơn một thập kỷ qua, góp phần tăng nguồn lực tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng. Những bài học kinh nghiệm từ việc chi trả dịch vụ môi trường rừng là cơ sở để nhân rộng cơ chế tương tự cho các hệ sinh thái khác, trong đó có môi trường biển và đất ngập nước.
Mặc dù Việt Nam đã triển khai các sáng kiến giống PES như thu phí dịch vụ tham quan đối với các khu vực biển và vùng đất ngập nước được bảo vệ, mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, hay phát triển các phương pháp nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường ở một số vùng ven biển với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các ngành liên quan, nhưng hiện tại vẫn chưa có chi trả toàn diện cho dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước.
Đối với vấn đề tài chính cho đa dạng sinh học tại Việt Nam, UNDP đã triển khai một số sáng kiến như tài chính bền vững cho đa dạng sinh học, du lịch bền vững dựa vào thiên nhiên, đồng quản lý nguồn lợi thủy sản và tài nguyên thiên nhiên, và thúc đẩy thực hiện cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Việt Nam cũng cần có những đóng góp thiết thực góp phần thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học đầy tham vọng cam kết trong Khung Đa dạng sinh học Toàn cầu đưa ra tại Hội nghị lần thứ 15 (COP15), các bên của Công ước Đa dạng sinh học.
Bên cạnh đó, không chỉ cần những nỗ lực đến từ các nhà hoạch định chính sách, mà còn từ các tập đoàn, và cá nhân cùng đưa ra các sáng kiến thúc đẩy dịch vụ hệ sinh thái giúp cho công cuộc tái tạo, phục hồi đa dạng sinh học và hệ sinh thái ở Việt Nam phát triển bền vững hơn.
PGS. TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh tầm quan trọng của những đóng góp, ý kiến của chuyên gia đối với kết quả nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách để giúp hoàn thiện kết quả nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách về chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước, trong những kế hoạch triển khai sắp tới đảm bảo tính khả thi, hiệu quả áp dụng.
Qua các báo cáo tổng kết và phân tích các kinh nghiệm và thực hành tốt về PES tại các nước như Trung Quốc, Đông Phi, khu vực Châu Âu, Costa Rica và các mô hình thực tiễn ở Việt Nam đã ghi nhận sự thành công trong triển khai kế hoạch phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Các chương trình sẽ hoạt động tốt nhất khi các dịch vụ được xác định rõ ràng. Các hệ thống PES chủ yếu tập trung vào các dịch vụ hệ sinh thái/ môi trường có giá trị cao đối với người hưởng lợi và chi phí cung cấp dịch vụ thấp. Các dịch vụ đầu nguồn, dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hấp thụ cacbon và vẻ đẹp cảnh quan là những mục tiêu chính của các chương trình PES trên toàn cầu.
Đồng thời, báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính trong khuôn khổ Dự án BES- Net giai đoạn II, bao gồm xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước quốc gia, hỗ trợ đánh giá và đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ở cấp cơ sở, lập bản đồ hiện trạng dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước ở Việt Nam, xây dựng hướng dẫn cho cấp tỉnh và cấp cơ sở đề án cơ chế chi trả, thí điểm chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với hệ sinh thái biển và đất ngập nước, hoàn thiện chính sách, quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, trọng tâm là hệ sinh thái biển và đất ngập nước.
Hội thảo có sự tham gia của đại diện từ nhiều tổ chức khác nhau gồm Bộ TN&MT, Viện nghiên cứu, tổ chức quốc tế (WWF, USAID), các vườn quốc gia, tổ chức phi chính phủ,…
Hội thảo là một phần của dự án “Mạng lưới Dịch vụ Hệ sinh thái và Đa dạng Sinh học” (BES-Net) giai đoạn II. BES-Net là một sáng kiến hợp tác giữa UNDP, UNEP-WCMC và UNESCO, được hỗ trợ bởi Sáng kiến Khí hậu Quốc tế (IKI) của Chính phủ Đức và SwedBio. Dự án nhằm mục đích thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái để tăng cường khả năng phục hồi của Trái đất và phúc lợi của con người.