Lam Sơn được biết đến là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Bởi nơi đây, không những là một vùng đất thiêng; còn là nơi sinh ra và dung dưỡng, che chở biết bao anh hùng hào kiệt.
Lam Sơn – vùng đất “địa linh nhân kiệt”.
Theo sử sách ghi lại, Lam Sơn nằm về tả ngạn dòng sông Chu, phía Tây tiếp giáp miền thượng du Thanh Hóa với núi rừng trùng điệp, đầu nguồn các sông Mã, sông Chu (nay là vùng Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Cẩm Thủy, Bá Thước…). Nơi đây có làng Cham, quê hương của Lê Lợi. Điều này được nhắc đến tại đoạn đầu sách “Lam Sơn thực lục”: Lam Sơn động chủ, cụ cố của trẫm họ Lê, tên là Hối, người thôn Như Áng, hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa… Một hôm đi chơi đến Lam Sơn, thấy bầy chim bay lượn quanh chân núi như dáng đông người tụ tập. Cụ nói “Nơi này là đất tốt đây”! Thế là cụ rời nhà đến đó ở. Lam Sơn thuộc huyện Lương Giang, nên Lương Giang cũng trở thành một cái tên đi vào lịch sử. Sách “Đại Nam quốc sử diễn ca” có ghi: Lương Giang trời mở chân nhân. Vua Lê Thái tổ ứng tuần mới ra.
Bàn về vùng đất Lam Sơn, TS Phạm Văn Tuấn, nguyên Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa Thanh Hóa trong bài viết “Thử xác định địa bàn hương Lam Sơn đầu thế kỷ XV”, đã căn cứ vào sử liệu và sự phân cấp quản lý hành chính địa phương thời Trần, cho biết, hương Lam Sơn ở thế kỷ XV là một đơn vị hành chính rộng, ngày nay tương đương với các xã Thuận Minh, Thọ Lập, Xuân Thiên, thị trấn Lam Sơn (Thọ Xuân); các xã Kiên Thọ, Vân Am, Nguyệt Ấn, Phúc Thịnh (Ngọc Lặc); xã Ngọc Phụng và thị trấn Thường Xuân (Thường Xuân).
Theo các tài liệu sử sách thì đất Lam Sơn là một vùng đất rộng, trung tâm là làng Cham, quê hương Lê Lợi – nơi dòng họ Lê đã có công khai mở và xây dựng. Do đó, khi nói về không gian văn hóa Lam Sơn, các nhà văn hóa cho rằng có hai lớp văn hóa: văn hóa Lam Sơn và văn hóa Lam Kinh. Trong không gian văn hóa Lam Sơn, vào thời Lê Lợi làm chủ trại Lam Sơn, vùng đất này dân phát triển và nhiều người biết đến. Lê Lợi đã biến trại Lam Sơn thành nơi chuyên tâm đọc sách thao lược và dốc sạch của cải hậu đãi khách nhân, phát thóc giúp dân cơ bần, thu nạp người chống đối giặc Minh, ngấm ngầm nuôi giấu những kẻ sĩ mưu trí, nơi trú ẩn cho bao sinh mệnh, giúp họ không phải chịu phu phen, tạp dịch, đe dọa, đánh đập.
Vùng đất Lam Sơn đã sinh ra và nuôi dưỡng vị lãnh tụ thiên tài của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời, đây còn là nơi phát tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gắn với những địa danh lịch sử: Như Áng, núi Dầu, núi Mục, sông Lương, Lũng Nhai… Lam Sơn đã chứng kiến nghĩa quân Lam Sơn từ những ngày đầu hình thành đến những năm tháng chiến đấu gian khổ. Gắn với đất Lam Sơn là sự kiện Hội thề Lũng Nhai (núi Pù Mé, xã Ngọc Phụng) – một biểu tượng của tinh thần đoàn kết và ý chí phục quốc của các anh hùng, hào kiệt binh sĩ trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; dấu mốc quan trọng đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nơi đây, vào năm 1416, Lê Lợi đã cùng 18 vị hào kiệt dâng lễ vật, sinh huyết để tấu cáo với trời đất và sông núi, nguyện kết nghĩa anh em, chung sức đồng lòng chống giữ địa phương.
Vùng đất Lam Sơn khi xưa còn là nơi vua Lê lựa chọn để thờ cúng tiên tổ, an nghỉ ngàn thu của các vua, thái hậu nhà Lê và nơi cử hành các nghi lễ khi nhà vua về bái yết Sơn Lăng. Đến nay, “kinh đô tưởng niệm” ấy chính là Khu di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh gồm một quần thể kiến trúc điện, miếu, lăng mộ… phía Bắc dựa vào núi Dầu, mặt Nam nhìn ra sông Chu. Theo các nhà nghiên cứu, việc xây dựng miếu điện, lăng mộ ở Lam Kinh hoàn toàn phụ thuộc vào địa hình có sẵn, do thiên nhiên tạo ra. Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú có viết: “Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái tông và lăng của các nhà vua và hoàng hậu nhà Lê đều ở đây cả, lăng nào cũng có bia”.
Tìm về Lam Sơn, những ngày chuẩn bị cho lễ hội Lam Kinh, chúng tôi càng thêm hiểu biết về mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này. Lam Kinh không chỉ là “thánh địa” của nhà Lê, nơi lưu giữ hệ thống lăng mộ và bia ký ghi lại thân thế, sự nghiệp của các vua và hoàng thái hậu thời Lê Sơ – những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc và bảo vật quốc gia. Mà, trải qua quá trình phát triển, Lam Kinh đã trở thành nơi về nguồn, nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân đất Việt. Tại vùng đất linh thiêng này, vào những ngày lễ hội, các nghi lễ truyền thống cùng các trò diễn xướng mang đậm tính cung đình như Ai Lao, Chiêm Thành, Ngô Quốc… được tái hiện nhằm thể hiện sự thành kính và tưởng niệm những công lao của các bậc tiền nhân tiên tổ; khẳng định sự gắn kết của đồng bào Mường, Kinh trong lịch sử dựng và giữ nước, tạo nên một không gian văn hóa đậm đà bản sắc.
Với việc hội tụ đủ các yếu tố vị trí địa lý, lịch sử, văn hóa, con người, Lam Sơn đã trở thành vùng văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của văn hóa xứ Thanh và văn hóa Việt. Để gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử ấy, người dân Lam Sơn cũng như toàn thể Nhân dân Thanh Hóa đã và đang nỗ lực khơi dậy và phát huy truyền thống hào hùng và tinh thần đoàn kết, để phát triển vùng đất Lam Sơn, quê hương Thanh Hóa ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Bài và ảnh: Thùy Linh