Là 1 trong 3 khâu đột phá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, từ năm 2021 đến nay, các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, góp phần đổi mới tư duy và nhận thức về nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ; chủ động, tích cực tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.
Công ty CP Xây dựng và Thương mại Phong Cách Mới (thị trấn Tân Phong, huyện Quảng Xương) ứng dụng khoa học – công nghệ trong chế biến bột rau má, nước uống rau má.
Nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống, 3 năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở đã từng bước đưa khoa học – công nghệ trở thành động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng. Nhiều mô hình sản xuất tiên tiến quy mô lớn, sản xuất hữu cơ, gắn với chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị đang mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Toàn tỉnh đã tích tụ, tập trung được trên 34.400 ha đất để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; có trên 80.000 ha nông sản được sản xuất theo hình thức liên kết bao tiêu sản phẩm. Lợi nhuận trung bình đạt 200 triệu đồng/ha/năm đối với mô hình trồng trọt, gấp 2,5 đến 3 lần so với sản xuất thông thường; đạt từ 1,5 đến 2 tỷ đồng/trang trại/năm đối với mô hình chăn nuôi, gấp 2 lần so với chăn nuôi truyền thống; 80% mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được bao tiêu sản phẩm, các mô hình còn lại có thị trường tiêu thụ ổn định. Ứng dụng công nghệ số trong chế biến, quản lý sau thu hoạch được chú trọng; tích cực triển khai phần mềm quản lý chuỗi cung ứng sản phẩm thực phẩm an toàn và tích hợp thông tin vào mã QR phục vụ truy xuất nguồn gốc nhanh chóng, chính xác. Nông dân từng bước phát huy vai trò làm chủ sản xuất, tích cực tham gia chuỗi giá trị và hưởng lợi trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Trong trồng trọt, đã đẩy mạnh ứng dụng các loại giống tiến bộ mới, có năng suất, chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường. Đến nay, tỷ lệ sử dụng các giống tiến bộ, ứng dụng kỹ thuật sinh học trong trồng trọt đạt 93% đối với lúa, 100% đối với ngô, 82% đối với rau màu, 87% đối với cây công nghiệp. Nhiều cơ sở sản xuất rau, quả, hoa chất lượng cao triển khai công nghệ sản xuất nhà kính, nhà màng với tổng diện tích toàn tỉnh đạt trên 170 ha. Diện tích sản xuất lúa theo hướng hữu cơ được mở rộng, đến nay đạt khoảng 840 ha, trong đó: Công ty CP Mía đường Lam Sơn triển khai mô hình lúa hữu cơ tại các huyện với diện tích 280 ha; mô hình lúa hữu cơ tại các xã Định Tiến, Quý Lộc, Định Long (Yên Định) với diện tích 30 ha; mô hình lúa cá hữu cơ tại xã Hà Lĩnh (Hà Trung) với diện tích 200 ha; mô hình lúa – rươi tại các huyện Quảng Xương, Nông Cống với diện tích 10 ha… Nghiên cứu, chọn tạo thành công 12 giống lúa năng xuất; du nhập, khảo nghiệm 6 giống mía mới có trữ lượng đường cao; phục tráng 5 loại cây trồng địa phương (lúa nếp hạt cau, nếp cẩm, bưởi Luận Văn, cam Vân Du, quýt vòi, mía Kim Tân). Tăng cường ứng dụng các giống biến đổi gen, trong đó diện tích gieo trồng ngô biến đổi gen có năng suất cao hàng năm trên 10.900 ha. Hoàn chỉnh quy trình sản xuất thông minh thích ứng biến đổi khí hậu trên diện tích 6.900 ha lúa và 1.400 ha rau các loại tại các địa phương. Ứng dụng, chuyển giao công nghệ tưới nước tiết kiệm đối với rau an toàn, cây ăn quả và vùng mía thâm canh trên địa bàn tỉnh đến nay đạt 2.810 ha, tăng 130 ha so với năm 2021. Ngoài ra, bước đầu đã có các mô hình ứng dụng các công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất như: ứng dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong quản lý vùng trồng mía nguyên liệu, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất.
Toàn tỉnh đã tích tụ, tập trung được trên 34.400 ha đất để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; có trên 80.000 ha nông sản được sản xuất theo hình thức liên kết bao tiêu sản phẩm. Lợi nhuận trung bình đạt 200 triệu đồng/ha/năm đối với mô hình trồng trọt, gấp 2,5 đến 3 lần so với sản xuất thông thường; đạt từ 1,5 đến 2 tỷ đồng/trang trại/năm đối với mô hình chăn nuôi, gấp 2 lần so với chăn nuôi truyền thống; 80% mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được bao tiêu sản phẩm, các mô hình còn lại có thị trường tiêu thụ ổn định. |
Tuy nhiên, so với yêu cầu, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học – công nghệ trong nông nghiệp vẫn còn những khó khăn, hạn chế, đó là: Sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương còn manh mún, nhỏ lẻ, phương thức canh tác chủ yếu vẫn theo phương pháp truyền thống. Nguồn vốn dành cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế; việc nhân rộng một số đề tài, mô hình ứng dụng công nghệ cao còn chậm; chưa có nhiều đề tài nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao sau thu hoạch, bảo quản, chế biến lâm sản. Chuỗi liên kết trong phát triển chưa bền vững, số lượng các đơn vị triển khai ứng dụng phần mềm quản lý chuỗi cung ứng sản phẩm thực phẩm an toàn và tích hợp thông tin vào mã QR chưa nhiều.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học – công nghệ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, các cấp ủy, chính quyền tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp; phát triển các mô hình sản xuất có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, sản xuất hữu cơ, theo quy trình VietGAP. Đồng thời, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp, trang trại, HTX, hộ gia đình đầu tư hệ thống chế biến nông sản công nghệ cao, tăng cường liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Triển khai mạnh mẽ việc áp dụng và quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng tới xuất khẩu. Tăng cường hợp tác với các tổ chức khoa học – công nghệ, các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước để thực hiện các đề tài dự án, nghiên cứu lai tạo các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện của tỉnh; xây dựng và nhân rộng các mô hình ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp chính xác… Cần phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ, công chức quản lý Nhà nước các cấp. Tuyên truyền, vận động tạo chuyển biến trong nhận thức và đổi mới tư duy cho người lao động, từng bước đáp ứng yêu cầu ứng dụng, chuyển giao khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp.
Bài và ảnh: Minh Hiếu