Powered by Techcity

Thuyền độc mộc trên sông Mã gắn bó với đồng bào Thái


Người Thái là cư dân gắn bó với nước, giỏi trồng lúa, lấy nước từ sông suối qua hệ thống thủy lợi: mương, pai, lái, lịn tưới cho nương cao, ruộng thấp. Qua thực tiễn cuộc sống, người Thái từng đúc kết “khúc sông, vụng cá”. Nước là khởi nguồn của sự sống, có nước thì con người “không đói cơm đói gạo, không thiếu cá, canh rêu” và “có nước mới có ruộng/có mường mới có Tạo”.

Thuyền độc mộc trên sông Mã gắn bó với đồng bào TháiĐua thuyền độc mộc trên sông Mã (Bá Thước).

Từ lâu đời, người Thái sinh sống trên miền đất phía Tây tỉnh Thanh Hóa tụ cư thành những mường lớn như: mường Ca Da (Quan Hóa), mường Khoòng (Bá Thước), mường Trịnh Vạn (Thường Xuân)… dọc theo đôi bờ sông Mã, sông Chu và những con suối lớn. Với địa hình núi non hiểm trở, nhiều sông lắm suối, để di chuyển, cùng với đôi chân trên bộ thì thuyền là phương tiện có nhiều ưu thế giúp họ dọc ngang trên sông suối. Chính tụ cư và sinh sống bên sông, suối đã đem lại cho họ nhiều thuận lợi hơn những vùng đất khác: “Người Mường Ca Da ăn cá ba sông/ Sông Mã chảy dưới chân thang/ Ra đi cưỡi thuyền bè thay ngựa/ Hái củi chẳng cần dao/ Từ non cao củi trôi sông đem đến…”.

Gắn bó với thiên nhiên, sống trong môi trường nước, “ra đi cưỡi thuyền bè thay ngựa”, từ lâu đời thuyền độc mộc đã trở nên gắn bó thân thiết với người Thái từ lúc bé tới khi từ giã cõi đời con thuyền đi cùng người mất.

Từ thời tối cổ, cùng với bè mảng, thuyền độc mộc là phương tiện xuất hiện rất sớm giúp con người đi lại trên sông suối, đầm hồ. Qua các di chỉ khai quật khảo cổ học ở nước ta thời kỳ văn hóa Đông Sơn, thuyền độc mộc đã hiện hữu ít nhất cách nay khoảng 2.500 năm. Trên mặt trống đồng còn in dấu cùng với những chiếc thuyền lớn còn có thuyền độc mộc. Người Thái trên đất xứ Thanh xưa chắc đã tiếp thu được truyền thống chế tác thuyền độc mộc của tiền nhân và cho đến hôm nay đồng bào vẫn làm ra loại phương tiện này để đi lại trên sông suối, đánh cá, buông chài, vận chuyển hàng hóa, lương thực.

Để có được thuyền, trước tiên người ta phải tìm vật liệu và chế tác nó. Với những cánh rừng đại ngàn có nhiều loại gỗ quý, người ta thỏa sức chọn tìm loại gỗ tốt để tạo thuyền. Đối với người Thái loại gỗ dùng để làm thuyền phổ biến là gỗ dổi, chò, kiêng, xăng lẻ… những gỗ này vừa tốt, không ngấm nước, nhẹ, dễ nổi. Trước khi vào rừng, người chủ làm lễ cúng xin phép được vào rừng chặt gỗ. Khi chọn được cây gỗ vừa ý, họ làm lễ cúng thần rừng, thần cây cho phép được đẵn gỗ. Trước khi đốn cây, họ vạch vào thân cây đánh dấu, nếu cây đổ thì chọn phần nửa thân cây không tiếp giáp với đất để làm thuyền, sau đó chọn một đoạn ưng ý trong thân cây mới hạ, chặt rời một đoạn rồi đánh dấu phân biệt giữa gốc và ngọn cây bằng việc dùng rìu mổ một lỗ rộng phần ngọn cây và luồn dây rừng cho trâu kéo về bản. Nếu đốn cây gần sông suối thì chế tác thuyền ngay tại nơi đó. Người Thái dùng rìu để khoét lòng thuyền hoặc đốt lửa hun, sau đó dùng rìu đẽo gọt cho hoàn tất. Nếu làm thuyền độc mộc lớn, người chủ phải mời thêm một số người bà con, hoặc những người có kinh nghiệm giúp đỡ. Bài khặp Thái ở mường Ca Da, huyện Quan Hóa phản ánh việc tìm gỗ, làm thuyền: “Ta đi lên ngàn chặt cây/ Chặt cây gỗ dài, chặt cây gỗ to/ Gỗ kiêng, gỗ dổi, gỗ chò/ Súc kéo bằng bò, súc kéo bằng tay/ Bản Khằm, bản Khó về đây/ Khoét đục đêm ngày nên con thuyền xinh…”.

Thuyền làm xong, chọn ngày lành tháng tốt chủ thuyền làm một mâm lễ, gồm có: xôi đồ, vịt, cá nướng, rượu cần, trầu cau… và đặt các lễ vật lên thuyền cúng các vị thần sông, suối, thần bến nước… phù hộ cho thuyền và chủ nhân của nó gặp nhiều điều may mắn: “Thuyền độc mộc con thuyền thương/ giúp cho bản mường cơm trắng, cá to”, bình yên vượt qua ghềnh thác, sông sâu, vực xoáy: “Mặc cho ghềnh cả, thác to/ Thuyền vẫn lướt bờ, xô nước thuyền đi”.

Thuyền độc mộc từ bao đời nay gắn bó thân thiết với đồng bào Thái và không rõ giữa thuyền độc mộc và chiếc luống cái nào có trước, cái nào có sau? song giữa hai công cụ này đều có những nét tương đồng. Về chất liệu và kiểu dáng chiếc luống là hình dáng thu nhỏ của thuyền độc mộc. Công năng của luống trước tiên là chiếc cối dài vừa để vò lúa, giã gạo và sau đó trở thành nhạc cụ gõ khá phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng và thực hành nghi lễ không chỉ của người Thái mà còn được đồng bào các dân tộc ở miền núi tỉnh Thanh sử dụng. Nếu người đi thuyền độc mộc sử dụng mái chèo hay cây sào để điều khiển con thuyền lướt trên mặt nước thì người sử dụng luống dùng những chiếc chày gỗ vừa để giã gạo, vừa tạo nên những âm thanh độc đáo rất đặc trưng của núi rừng, phản ánh những cung bậc tình cảm và trạng thái tâm lý của mỗi cá nhân cũng như của cả bản mường.

Con thuyền độc mộc, chiếc luống gắn bó thủy chung đối với người Thái với tiếng luống khua rộn rã, tưởng như vỡ òa khi có một đứa trẻ – thành viên mới của cộng đồng chào đời; cũng chiếc luống này giã nên gạo thơm, cơm trắng nuôi lớn bé thơ cùng với dòng sữa ngọt lành của người mẹ núi; thuyền độc mộc – phương tiện hữu ích mà các chàng trai, cô gái Thái hay lam hay làm để “đi sông ăn cá, ra ruộng ăn cơm”; tiếng luống ngân vang mời gọi trong đêm trăng sáng, cho gái bản trên, trai mường dưới dắt díu nhau vào hội Kin chiêng boọc mạy, say điệu múa quanh cây hoa ngũ sắc, quả còn xanh đỏ và lời khặp thiết tha, trao duyên trao tình để cho những lứa đôi bén duyên nhau nên vợ nên chồng. Không những thế con thuyền độc mộc, chiếc luống còn theo họ khi phải từ giã cõi đời trở về với thế giới mường ma đối với người Thái theo tín ngưỡng địa táng, khác với đồng bào Thái theo tín ngưỡng hỏa táng.

Quan tài của người Thái là mô hình hai chiếc thuyền độc mộc úp lại. Quan tài được làm bằng thân cây khoét rỗng, gọi là “chùng” với loại gỗ không bị mối mọt như: trám, de, vang, dổi… Xa xưa, người Thái chuyên làm quan tài bằng loại gỗ mà tiếng Thái gọi là “cò bể”. Loại cây này dóng cao thẳng, có nhiều trong rừng, về sau gỗ này hiếm dần nên mới dùng các loại gỗ trên.

Quan tài hình thuyền dài khoảng 2,20m, đường kính 60 – 65cm, lòng rộng 40 – 50cm, chiều dài của lòng 1,80m. Tạo lòng bằng cách bổ đôi thân cây thành hai nửa, nửa trên mỏng hơn nửa d­ưới, rồi khoét rỗng hai nửa thành hình máng, giữa hai mép soi rãnh và tạo gờ để khi đậy nắp lại vừa khít. Sau khi đặt người quá cố vào quan tài kèm theo đồ tùy táng, nhất thiết phải có vỏ quả bầu khô đựng nước hoặc vò rượu, tiếp đó dùng củ nâu giã nhỏ hoặc lấy cơm nếp luyện cho nhuyễn trát kín kẽ hở của hai thớt. Những người tham gia làm quan tài trước đó phải ăn thịt chó, bởi người Thái quan niệm chó liếm sạch cây cầu bôi mỡ, giúp cho người chết qua cầu về mường ma không trượt ngã rơi xuống vực, xua đuổi ma quỷ và những ngư­ời làm quan tài sẽ không bị “phi” bắt theo cùng với người nằm trong quan tài.

Với động táng Lũng Mi thuộc huyện Quan Hóa phát hiện chưa lâu trên một ngọn núi cao, dưới chân núi là dòng sông Mã. Động táng này có tới hàng trăm chiếc quan tài bằng thân cây khét rỗng chứa xương người và một số đồ tùy táng như gươm, mũi tên đồng, đồ gốm cổ. Điều đó chứng minh rằng từ lâu đời người Thái cũng như những tộc người thiểu số ở nơi đây đã có tục quàn người chết trong những chiếc quan tài hình thuyền.

Ngày nay kiểu mộ táng và quàn người chết trong thân cây khoét rỗng vẫn được đồng bào Thái ở các huyện Quan Hóa, Thường Xuân, Quan Sơn, Bá Thước thực hiện. Thuyền độc mộc vẫn gắn bó với đồng bào Thái như những ngày nào, giúp họ đánh cá buông chài, lấy rêu trên sông Mã, sông Chu, sông Lò, sông Đặt… Thanh âm của tiếng luống khua vẫn ngân vang khắp bản gần mường xa, nhân lên niềm vui khi đứa trẻ chào đời, mừng cô dâu mới, vụ mùa tươi tốt và sẻ chia nỗi buồn khi có người khuất núi, rời xa cộng đồng.

Từ con thuyền độc mộc, chiếc luống tới quan tài hình thuyền của người Thái tỉnh Thanh bước đầu rút ra một số nhận xét:

Với địa bàn cư trú ở miền rừng núi, nhiều sông suối từ lâu đời người Thái đã gắn bó và am hiểu môi trường sông nước. Nước là nguồn gốc của sự sống, vì vậy từ sùng bái nước họ đã thiêng hóa nước. Trong các nghi lễ với các đối tượng liên quan tới nước: dòng sông, con suối, bến nước, vò rượu, quả bầu khô đựng nước, con thuyền… người Thái luôn thể hiện sự trân trọng và biết ơn sâu sắc. Sống trong môi trường nước, di chuyển trên sông suối bằng thuyền để có nguồn thực phẩm cá, tôm, rêu… dồi dào từ sông suối mang lại giúp con người duy trì cuộc sống, dần hình thành niềm tin, lòng ngưỡng mộ đối với con thuyền trong cộng đồng người Thái từ ngàn xưa tới nay.

Cư dân Đông Nam Á nói chung, người Thái nói riêng là những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vừa có tục thờ nước, vừa thờ mặt trời – thần ánh sáng tác động tới sự sinh trưởng của cây trồng, vì vậy họ luôn tin rằng linh hồn người chết sẽ được trở về thế giới của mường trời. Phương tiện đi lại của người Thái không gì thuận lợi hơn bằng thuyền, nên linh hồn cần có một con thuyền để về với thế giới bên kia, chính vì lẽ đó mà từ thời tối cổ đến tận hôm nay quan tài của người Thái vẫn là thân cây khoét rỗng hình chiếc thuyền độc mộc.

Thuyền độc mộc, chiếc luống, quan tài hình thuyền của người Thái nói chung và người Thái tỉnh Thanh nói riêng hàm chứa những quan niệm về cuộc sống và cái chết cùng triết lý sâu xa: con người biết ơn, tôn trọng và bảo vệ tự nhiên, sống hòa đồng với dòng suối, con sông, cánh rừng, ngọn núi… mà người xưa trao gửi qua thuyền độc mộc.

Bài và ảnh: Hoàng Minh Tường (CTV)



Nguồn: https://baothanhhoa.vn/thuyen-doc-moc-tren-song-ma-gan-bo-voi-dong-bao-thai-225562.htm

Cùng chủ đề

Nghị quyết số 17-NQ/TU khơi dậy “nguồn lực nội sinh”, “sức mạnh mềm” cho xứ Thanh phát triển

Lịch sử là điểm tựa, văn hóa là nguồn sức mạnh nội sinh, con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Nhận thức sâu sắc điều đó, nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế vùng đất được ví như “Việt Nam thu nhỏ”, ngày 4/7/2024, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU về tiếp tục xây dựng, phát triển văn hóa và con người Thanh Hóa trong thời kỳ mới....

Vui hội Pồn Pôông

Xuân đến, đất trời nở hoa, bà con người Mường lại cùng nhau vui hội Pồn Pôông. Hương sắc của núi rừng hòa quyện với thanh âm rộn ràng của tiếng cồng chiêng, tiếng trống, tiếng nói cười của người dân tham gia lễ hội làm không khí xuân nhộn nhịp khắp xóm làng.Các trò diễn đều xoay quanh cây bông, mô phỏng phong tục, tập quán, phản ánh đời sống tâm linh, văn hóa của người Mường.Lễ hội...

Nghị quyết số 17-NQ/TU về văn hóa và con người Thanh Hóa: Từ nhận thức đến hành động (Bài cuối)

“Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu...

Nghị quyết số 17-NQ/TU về văn hóa và con người Thanh Hóa: Từ nhận thức đến hành động (Bài 2)

Trong quá trình phát triển đất nước, văn hóa và con người luôn được Đảng và Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm - “hệ điều tiết của quá trình phát triển”. Và đây cũng là những nhân tố căn bản, góp phần kiến tạo nên môi trường tiến bộ, văn minh làm động lực căn bản cho mọi sự phát triển bền vững.Cổng làng Đông Cao (Nông Cống) - làng văn hóa đầu tiên của tỉnh...

Nghị quyết số 17-NQ/TU về văn hóa và con người Thanh Hóa: Từ nhận thức đến hành động (Bài 1)

Một bề dày truyền thống văn hóa được bồi tụ qua hàng ngàn năm; cùng phẩm giá con người mang những đặc trưng “rất Việt Nam”. Đó chính là nền tảng để định hình nên diện mạo văn hóa và con người xứ Thanh trong thời đại ngày nay.Các di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, góp phần làm đa dạng, phong phú kho tàng văn hóa truyền thống xứ Thanh. Ảnh: Khôi NguyênVăn hóa là hồn...

Cùng tác giả

Quan Hóa – vùng đất giàu tiềm năng phát triển “ngành công nghiệp không khói” (Bài 2): Sớm đưa du lịch trở thành ngành...

Trên địa bàn huyện Quan Hóa hiện có 40 cơ sở lưu trú với sức chứa khoảng 600 người, trong đó, có 20 homestay. Năm 2024, huyện đón 30.000 lượt du khách đến các điểm du lịch trên địa bàn, doanh thu từ du lịch đạt 7,8 tỷ đồng... Đây là con số còn khiêm tốn so với tiềm năng du lịch của huyện.Khu di tích hang Co Phương ở bản Sạy, xã Phú Lệ là một trong những...

Khởi công Dự án số 1 – Tổ hợp hóa chất Đức Giang Nghi Sơn và Nhà máy sản xuất vải Billion Union Việt...

Sáng 17/2, tại Khu Kinh tế Nghi Sơn (thị xã Nghi Sơn), UBND tỉnh Thanh Hóa phối hợp với các nhà đầu tư tổ chức Lễ khởi công Dự án số 1 - Tổ hợp hóa chất Đức Giang Nghi Sơn và Nhà máy sản xuất vải Billion Union Việt Nam.Dự buổi lễ có các đồng chí: Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Sinh Nhật Tân, Thứ trưởng Bộ Công Thương; Đỗ...

Thị xã Nghi Sơn phấn đấu thành lập mới 180 doanh nghiệp trở lên

Năm 2025, thị xã Nghi Sơn phấn đấu thành lập mới 180 doanh nghiệp trở lên, đồng thời tổ chức thành công các lớp khởi sự doanh nghiệp và Quản trị doanh nghiệp theo kế hoạch của UBND tỉnh.Công nhân làm việc tại Công ty TNHH Chế biến hải sản Hiệp Anh, phường Hải Hòa.Để đạt được mục tiêu đề ra, thị xã Nghi Sơn và 30 xã, phường trên địa bàn thị xã tiếp tục tăng cường sự...

Quân khu 4 kiểm tra công tác chuẩn bị ra quân huấn luyện năm 2025

Sáng 17/2/, đoàn công tác Quân khu 4 do đồng chí Đại tá Phạm Văn Dũng, Phó Tham mưu trưởng làm trưởng đoàn đã đến kiểm tra công tác chuẩn bị huấn luyện, lễ ra quân huấn luyện năm 2025 tại Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh Thanh Hóa. Tiếp và làm việc với đoàn công tác có đồng chí Đại tá Vũ Văn Tùng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh.Đoàn...

Chống hàng giả: “Cuộc chiến” không của riêng ai (Bài 2)

Cùng với “ngụy trang” dưới các “vỏ bọc”, hay móc nối thành đường dây để thực hiện các công đoạn khác nhau trong khâu sản xuất; các “gian thương” đang tận dụng “tối đa” kẽ hở của pháp luật trong quản lý kinh doanh online để tung “chiêu” lừa bán hàng giả, trục lợi bất chính cũng như trốn tránh sự kiểm soát của pháp luật.Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Vĩnh Lộc bắt quả tang...

Cùng chuyên mục

Quan Hóa – vùng đất giàu tiềm năng phát triển “ngành công nghiệp không khói” (Bài 2): Sớm đưa du lịch trở thành ngành...

Trên địa bàn huyện Quan Hóa hiện có 40 cơ sở lưu trú với sức chứa khoảng 600 người, trong đó, có 20 homestay. Năm 2024, huyện đón 30.000 lượt du khách đến các điểm du lịch trên địa bàn, doanh thu từ du lịch đạt 7,8 tỷ đồng... Đây là con số còn khiêm tốn so với tiềm năng du lịch của huyện.Khu di tích hang Co Phương ở bản Sạy, xã Phú Lệ là một trong những...

Quan Hóa – vùng đất giàu tiềm năng phát triển “ngành công nghiệp không khói” (Bài 1): Điểm đến hấp dẫn của du lịch...

Quan Hóa trước đây có tên gọi là Mường Ca Da, là huyện vùng cao phía Tây xứ Thanh, với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ nên nơi đây có tiềm năng to lớn về du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng.Văn hóa rượu cần của đồng bào dân tộc Thái ở Quan Hóa. Ảnh: Đình GiangBản Bút, xã Nam Xuân cách trung tâm huyện Quan Hóa chưa đầy 10km,...

Bảo tồn, gia cố di tích Hòn Vọng Phu

UBND tỉnh Thanh Hóa cho biết đã gửi tờ trình lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị thẩm định dự án bảo tồn, gia cố di tích Hòn Vọng Phu. Di tích này thuộc Cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh núi An Hoạch (núi Nhồi), phường An Hưng, TP Thanh Hóa.Thắng cảnh Hòn Vọng Phu.Hòn Vọng Phu được cấu tạo từ đá vôi, trải qua thời gian dài đã bị phong hóa, nứt...

Dự chi 17 tỉ đồng bảo tồn, gia cố di tích Hòn Vọng Phu

UBND tỉnh Thanh Hóa cho biết đã gửi tờ trình lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị thẩm định dự án bảo tồn, gia cố di tích Hòn Vọng Phu. Di tích này thuộc Cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh núi An Hoạch (núi Nhồi), phường An Hưng, TP Thanh Hóa.Thắng cảnh Hòn Vọng Phu.Hòn Vọng Phu được cấu tạo từ đá vôi, trải qua thời gian dài đã bị phong hóa, nứt...

Bó hoa hồng cuối ngày

Tổng Biên tập: Nguyễn Việt BaPhó Tổng Biên tập: Ngô Quang Tự, Phạm Hồng Hạnh, Hoàng Anh TuấnĐịa chỉ: Đường Nguyễn Duy Hiệu, Thành phố Thanh HóaĐường dây nóng: 0822173636Email: [email protected]ên hệ QC: 0941252468 - 0917686894. ...

Lắng lòng nghe hát chầu văn

Hát chầu văn (hay còn gọi là hát văn, hát bóng) là hình thức lễ nhạc gắn với nghi thức hầu đồng trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Đây cũng là một trong những thành tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn, độc đáo, góp phần đưa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.Một giá hầu đồng tại đền cô...

“Thanh Hóa tươi đẹp” qua những ghi chép của học giả người Pháp

Cuốn sách “Thanh Hóa tươi đẹp” (2022, NXB Thanh Hóa) có khổ 14,5X20,5cm, dung lượng gần 200 trang. Nội dung cuốn sách được các tác giả Nguyễn Xuân Dương – Lâm Phúc Giáp dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Thanh Hoa pittoresque” do học giả người Pháp Le Breton viết, xuất bản năm 1922. Hiện bản gốc đang được lưu giữ tại Thư viện Thanh Hóa. Như một cuốn cẩm nang, hướng dẫn du lịch, Le Breton đã khắc...

Mùa du lịch văn hóa

Với sự đa dạng về văn hóa và thiên nhiên, du lịch văn hóa xứ Thanh đang là “điểm hẹn mùa xuân” hấp dẫn du khách gần xa. Chỉ tính riêng kỳ nghỉ Tết Nguyên đán vừa qua, toàn tỉnh đón khoảng 675 nghìn lượt khách, tập trung chủ yếu tại các điểm du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh, phần nào cho thấy sức hút mạnh mẽ của loại hình du lịch này.Du khách đến với Di...

Hướng dẫn đặt vé pháo hoa Đà Nẵng DIFF 2025 trực tuyến

Với phương thức đặt vé trực tuyến nhanh chóng tại danago.com.vn, bạn đọc chỉ cần làm vài thao tác đơn giản là chắc chắn có một tấm vé chuẩn đúng giá công bố, được giao vé tận nơi.Lễ hội pháo hoa Đà Nẵng luôn là một sự kiện được mong đợi nhất trong năm, thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến với thành phố biển xinh đẹp này. Mỗi năm, sự kiện là dịp để...

Khai mạc Ngày thơ Việt Nam lần thứ XXIII – 2025 tại Thanh Hóa

Tối 11/2/2025, tại Khu Văn hóa tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh (TP. Thanh Hóa) đã diễn ra Lễ khai mạc Ngày thơ Việt Nam lần thứ 23 tại Thanh Hóa với chủ đề “Tổ quốc bay lên; Thanh Hóa vươn mình thực hiện khát vọng thịnh vượng”. Các đại biểu tham dự buổi lễ. ...

Tin nổi bật

Tin mới nhất